人日寄杜二拾遺

人日題詩寄草堂,
遙憐故人思故鄉。
柳條弄色不忍見,
梅花滿枝空斷腸!
身在南蕃無所預,
心懷百憂復千慮。
今年人日空相憶,
明年人日知何處?
一臥東山三十春,
豈知書劍老風塵,
龍鐘還忝二千石,
愧爾東西南北人!

 

Nhân nhật ký Đỗ nhị thập di

Nhân nhật đề thi ký thảo đường,
Dao liên cố nhân, tư cố hương.
Liễu điều lộng sắc bất nhẫn kiến,
Mai hoa mãn chi không đoạn trường.
Thân tại nam phiên vô sở dự,
Tâm hoài bách ưu phục thiên lự.
Kim niên nhân nhật không tương ức,
Minh niên nhân nhật tri hà xứ ?
Nhất ngoạ Đông Sơn tam thập xuân,
Khởi tri thư kiếm lão phong trần.
Long chung hoàn thiểm nhị thiên thạch,
Quý nhĩ đông tây nam bắc nhân!

 

Dịch nghĩa

Ngày mồng bảy tháng giêng, làm thơ gởi thảo đường
Thương người bạn ở xa đang nhớ quê nhà
Nhành liễu phô sắc không nỡ ngắm nhìn
Hoa mai nở đầy cành luống đoạn trường
Người ở phía nam (nước Thục) không có gì để vui vẻ
Trong lòng trăm nỗi ưu phiền, lại ngàn nỗi tư lự
Năm nay ngày nhân nhật chỉ biết ngồi nhớ nhau
Năm sau ngày nhân nhật không biết sẽ đi đến xứ nào
Ở Đông Sơn như vậy là đã ba mươi năm
Sao biết được thư kiếm đã nhuốm nhiều phong trần
Già yếu như vậy còn được làm quan thứ sử
Hổ thẹn với những người ở đông tây nam bắc


(Năm 761)

Nhân nhật là ngày mồng 7 tháng giêng âm lịch. Đỗ nhị thập di tức Đỗ Phủ.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Khương Hữu Dụng

Mồng bảy đề thư gửi thảo đường,
Xa thương bạn cũ, nhớ quê hương.
Nhánh liễu màu tươi không nỡ ngó,
Hoa mai cành trĩu luống đau thương.
Ở Thục, việc triều không thể dự,
Lòng những trăm lo lại nghìn nghĩ.
Năm nay mồng bảy nhớ ai đây,
Năm sau mồng bảy rồi đâu nhỉ ?
Một ẩn Đông Sơn ba chục năm
Biết đâu thư kiếm dạn phong trần.
Thẹn mình luống tuổi lương cao hưởng,
Bạn: bốn phương trời một tấm thân!

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn phước Hậu

Ngày bảy tháng giêng, kính thảo đường,
Thăm người bạn cũ, nhớ quê hương.
Liễu xanh khoe sắc lòng đâu ngắm
Mai nở đầy cành  nặng nhớ thương.
Trăm tính ngàn lo lòng nghĩ ngợi
Bao lâu còn giáng tại nam đường.
Năm nay mồng bảy riêng mình nhớ
Năm tới ngày này có chỗ nương ?
Ba chục năm Đông Sơn ở ẩn
Ai ngờ thư kiếm lắm phong sương.
Hai ngàn thạch thóc lòng già thẹn
Quý được như anh bạn bốn phương.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trần Trọng Kim

Thảo đường mồng bảy gởi thơ
Xa thương bạn cũ nhớ nhà biếng khuây
Sắc tươi mành liễu nào hay
Hoa mai cành trĩu luống gây đoạn trường
Nam phiên triều chính đâu tường
Trăm lo nghìn nghĩ ngổn ngang bời bời
Năm nay mồng bảy đã rồi
Sang năm mồng bảy sẽ dời đâu đây
Đông Sơn ba chục xuân chầy
Biết đâu thư kiếm không dây phong trần
Già nua hưởng lộc bội phần
Thẹn mình để bác xa gần bắc nam


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Gửi Thảo đường thơ làm ngày bảy
Thương bạn xa đầy dẫy nhớ quê
Liễu xanh khôn ngắm, ê chề
Mai đầy cành thắm cũng chê, đau lòng
Tôi biếm nam không còn triều chính
Trăm ngàn lo canh cánh lòng đau
Năm nay ngày bảy còn nhau
Sang năm ngày bảy biết đâu xa rồi
Ẩn Đông sơn ba mươi năm kém
Có hay chăng sách kiếm cũng già
Hai ngàn thạch lúa hưởng qua
Thẹn ông bốn hướng bôn ba chưa ngừng.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời