(Ấn tượng khi đọc Biển vắng của Trịnh Thanh Sơn)

Rơi chiều vàng ngơ ngác sóng
Xin đừng dõi chi chân trời
Anh ngồi im chìm chiếc bóng
Chén này biển với mình thôi!

Một cộng với một thành đôi
Anh cộng cô đơn thành biển
Nắng tắt mà người không đến
Anh ngồi rót biển vào chai.
Thời gian gần đây, cứ thấy người người nhắc nhiều tới Trịnh Thanh Sơn và Vàng gieo đáy nước (tập thơ tuyển mới được xuất bản năm 2007). Tập thơ dày hơn 200 trang tựa như một cuốn tự truyện chân thành bộc bạch những cung bậc xúc cảm hồn nhiên của người thi sĩ đa tài nặng nghiệp bút nghiên. Thơ Trịnh Thanh Sơn có những bài không phải là hay nhưng lại được một số câu rất ấn tượng và cũng có những tác phẩm được cả bài tương đối toàn vẹn. Tôi thích cái điệu thơ, cái tình thơ trong: Biển vắng (1976), Tự khúc (1980), Đêm (1984), Tản mạn thơ (1985), Linh cảm (2) (1996), Tự bạch (1996), Van (1999), Tự cháy (2004)... Tôi thích cái thứ thơ bóc trần tâm tư, một thứ thơ không làm gai người đọc mà lại có sức đọng. Cũng đã nghe người ta bàn nhiều về Biển vắng, tôi vẫn thích trò chuyện với Trịnh Thanh Sơn, vẫn thích suy tư sâu hơn về nỗi ám ảnh cô đơn tột cùng của thi sĩ.

Biển vắng cũng chẳng biết vắng người hay vắng sóng. Chỉ biết rằng cái khuôn chiều vàng ngọc cũng “rơi” như nỗi tủi hờn còn sóng thì “ngơ ngác” vì lắm nỗi ngẩn ngơ. Chiều “rơi” vì đâu? Sóng bâng khuâng nỗi gì mà có khi vỗ cả hai đầu xa ảo?

Cứ tưởng biển không người. Nhưng nhìn kĩ cũng thấy có người đang ngồi dõi về phía khơi xa mà lại nhắc người khác:
Xin đừng dõi chi chân trời.
Biển có vắng không khi biển còn “anh”? Nhưng sự hiện hữu của anh cũng chỉ bó gọn trong một tư thế tĩnh tại mà thôi:
Anh ngồi im chìm chiếc bóng.
Hoá ra biển không chỉ có anh mà còn dung chứa cả chiếc bóng của anh nữa. Thế nhưng, anh thì “ngồi im” còn chiếc bóng lại “chìm”. Tất cả đều là câm lặng. Sự câm lặng này đè lên sự tĩnh lặng khác, xếp câu thơ thành một khối nặng nề, bất động. Và anh không còn “trò chuyện với bóng mình” như mọi khi nữa. Ngôn ngữ nghệ thuật có cái kì lạ: đôi khi, cần nói nhiều nhất, đủ nhất, thấm nhất, người ta thường cậy vả sự lặng câm. Bởi thế nên bất động đấy mà xao động từng ngõ ngách tâm hồn. Có sự đơn độc nào không gợi về muôn mặt nỗi đau? Câu thơ nghiến chữ. Rồi bỗng ngỡ ra một sự thật rát lòng: bóng không làm bạn với thi sĩ, chiều và sóng cũng bỏ người mà đi. Chỉ có thế thôi đã làm câu thơ ngậm ngùi đến tội:
Chén này biển với mình thôi
Hoá ra biển cũng cô đơn như lòng người quạnh quẽ. Biển bỗng hoá hoang sơ... Sự hiện hữu của người bị giam trong im lặng tuyệt đối, không một cánh chim chiều hay một nẻo mây bay, không một cánh buồm hay một tiếng sóng cào bờ cát. Hỏi làm sao mà biển không vắng, không hoang?

Tâm hồn nhà thơ và tâm hồn của biển như có sự cộng hưởng, cùng chung một nhịp thở, một nhịp đau. Sự cô đơn tràn trề đưa hai sinh thể đến bên nhau. Người và biển nâng ly sầu chén tủi, có khi uống vơi rồi mà nỗi hoang lạnh càng đầy lên. “Biển với mình thôi”... Câu thơ đanh lại, nhắc người ta nhiều nỗi xót lòng. Có lẽ vì trái tim nhà thơ đơn chiếc quá nên tìm biển bầu bạn, những tưởng nhoà bớt sự lẻ loi nhưng hoá ra biển trơ trọi quá nên lòng người càng thêm bơ vơ. Giờ tìm ai để cùng nâng “chén này”?

Trịnh Thanh Sơn có vẻ là nhà thơ mê rượu:
Mong nhớ là gì thế
Chén rượu còn trên tay
Cứ ngỡ mình đã uống
Cứ ngỡ mình đã say!
(Nhớ)
Một đời lãng du, một chiều thấm mệt
Ta thành be cho rượu đổ tràn
(Bất chợt)
Nhưng hình như nhà thơ chưa say. Thậm chí ông còn rất tỉnh để nhận ra tình trạng lẻ loi của mình. Vì tỉnh nên nỗi đau càng ngấu. Vì tỉnh nên nhà thơ làm phép tính cũng rất chuẩn.:
Một cộng với một thành đôi
Anh cộng cô đơn thành biển
Hai cái “một’ sẽ ghép thành một “đôi”. Anh với cô đơn cộng lại thành biển. Anh - hữu hạn, cô đơn - tột cùng. Và mênh mông cô đơn,! Một phép cộng mang tính trừ hoại: trừ hoại bình yên, trừ hoại giấc mộng chung đôi, hoà hợp.

Con người ta bị đẩy vào cô đơn từ nhiều phía. Thường là do Buồn. Mà cái buồn lại nhiều căn cớ. Tình yêu vụn vỡ chăng? Hay sự nghiệp không thành? Liệu có thể là cái tôi hữu hạn đau đáu về một khát vọng thôn tính cái vô hạn của cuộc đời, của tình người...?

Không giống những ồn ào, ít kiêng dè ngày thường, ở những câu thơ này, Trịnh Thanh Sơn như tìm laị chính mình trong tột cùng ám ảnh cô đơn...Các thi sĩ thời thơ Mới như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên cũng từng dệt cái quạnh hiu của mình vào thơ, đọng lại buồn bã u sầu cho mãi mãi thế gian. Con người ta vốn thế, Trịnh Thanh Sơn vốn thế, cô đơn ngay chính trong tâm hồn mình. Nhà thơ luống cuống lo âu, tiếc nuối vì biểt mình không thể sống trọn vẹn, không thể thâu tóm hết mọi thương yêu, vui buồn của một kiếp người, trong khi trái tim lại luôn hôi hổi niềm khát khao hạnh phúc, hiến dâng, tin yêu cuộc đời, tin vào con người, vào tình yêu bền bỉ hay những ước nguyện bình an và sum họp tình người trên cõi nhân gian.

Hơn một lần Trịnh Thanh Sơn nói với chúng ta về những suy cảm ấy để gửi gắm nhiều thông điệp đậm tính nhân sinh. Đó là khát vọng tình yêu đi đến tận cùng:
Tới tận cùng Em
Tới tận cùng Người
Tới tận cùng cái Đẹp
(Tới em)
Nhà thơ vẫn hay triết lý:
Để yêu nhau một đời thôi chưa đủ
Một đời người chưa đủ một tình yêu
(Chuyện cũ)
Nhưng lại gặp nhiều trái ngang trong tình yêu:
Em vẫn đấy nhưng đâu còn em nữa
Sông như mê, ngơ ngác chảy bên trời
(Hoa mướp)
Hay:
Cứ đinh ninh rằng chân trời có thật
Tình yêu có thật
Sự tốt lành có thật
Và ta đi về phía không đâu
(Mùa đông)
Sau cùng, nhà thơ nhận thấy rằng mình “chỉ còn có thơ thôi”, và ở đó: “cung đàn thơ” là “một nốt SAY”, “một nốt ĐAU”, “một nốt THƯƠNG”.
Đau thương vận vào thơ, vận vào một đời người...
Biết bao chờ mong và hy vọng, thế nhưng:
Nắng tắt mà người không đến
Anh ngồi rót biển vào chai
Nắng tắt, sao người không đem về một miền ánh sáng? Mãi thấy vạn vật vô tình để rồi “hoang vắng thổi trong tôi”, để rồi “câu buồn anh giữ riêng anh”. Cứ thế, cái “rá buồn” của “gã ăn mày hâu đậu” càng đầy lên, nhức nhối. Câu thơ cuối cùng được người ta gọi là một thần cú. Nhà thơ vượt qua cái thân phận nhỏ bé của mình để đong rót cái vô cùng của biển cả, rót biển mà cũng là rót niềm đau như xát muối không giới hạn của mình vào một chiếc chai mang hình thể vật chất có giới hạn.

Câu thơ cuối âm vang, bỏ ngỏ bài thơ, kéo dài đến không cùng nỗi đau của một con người bất lực với sự tham lam của chính mình. Chữ “rót” nghe tựa hồ chữ “xót”. Tôi thích cái chữ này vì nó gợi. Có một Trịnh Thanh Sơn cặm cụi ngồi đó, rót đi rồi rót lại sự trống trải trong mình. Hành động ấy ngỡ như dứt khoát nhưng kì thực lại đầy do dự, kí hoạ thành công bức chân dung một thi sĩ mắc “bệnh” cô đơn. Ấy là một dạng thức phơi trải lòng mình khiến người đọc “phải lòng” với biết bao “tâm tình ở đằng sau tâm tình” nồng nhiệt.

Biển vắng ra đời vào những năm đầu sau ngày đất nước thống nhất (1976) nhưng không chỉ là một cải cách về ngôn từ, hình ảnh mà còn là một cách làm mới nỗi niềm đã cũ của bao người - sự cô đơn. Trên những câu chữ không màu mè, chân thực, Trịnh Thanh Sơn đã trình ra trọn vẹn nguyên mẫu tình yêu con người, yêu cuộc đời đến vô cùng nhưng lại không tránh được nỗi cô đơn đến tận cùng, miên viễn khi ý thức được thân phận hữu hạn của mình trước cái vô hạn, lớn lao. Cái buồn giam hãm nhà thơ trong cố cung mà những tường thành kiên cố của nó lại được tạo bằng nỗi cô đơn rợn ngợp. Nhưng chính trong cái buồn và nỗi cô đơn ấy, niềm yêu dành cho đời, cho người, cho thơ của Trịnh Thanh Sơn được bảo tồn nguyên vẹn.

Nhà thơ tâm nguyện:
Dẫu bụi cát sẽ trở về bụi cát
Cũng một lần tôi được là Tôi!
Có ai tính Được - Thua - Còn - Mất
Một tình yêu - Một trái tim ngời!
(Câu hát cuối cùng)
Người viết bài này chợt nhớ tới lời của nhà phê bình văn học Chu Văn Sơn: “Tôi vẫn cho rằng niềm trăn trở nhất trong suy cảm trữ tình của một nghệ sĩ chân chính là chuyện Còn-Mất của những gì mình coi là quý giá thiêng liêng”. Trịnh Thanh Sơn đắn đo giữa những gì Còn - Mất, Được - Thua, Đã có và Chưa có, giữa-tự-cháy-cho-riêng-mình và cháy-với-tất-thảy-trên-đời. Ngọn lửa tình yêu mà nhà thơ nuôi dưỡng, một ngày nào đó, sẽ có sức sưởi ấm một vùng ký ức thẳm sâu trong lòng độc giả. Bởi có ai mà không gặp lại lòng mình trong Biển vắng xa xôi?
Tôi đã sống hồn nhiên như cỏ
Dẫu bao nhiêu giông tố nát thân mình
Để một mai về trong lòng đất
Hoá thân thành muôn đọt non xanh
(Tự bạch)
Hồn nhiên ơi, rồi sẽ về đâu?. Trịnh Thanh Sơn đã buồn đau thật nhiều, đã cô đơn thật nhiều nhưng chắc những mảnh tim vỡ của nhà thơ cũng được vá víu vì “thơ có thể lau nước mắt cho người ta vậy”. Nhà thơ đã đi hết cái trẻ thơ của mình để chân thành với người, bộc trực với thơ, thành thật với chính bản thân mình. Vì thế chăng mà Biển vắng nhưng tình người không hoang vắng! Trịnh Thanh Sơn đã cảm hoá lòng người bằng một trái tim lành lặn!

Lý Thu Hải Thảo