Thơ » Trung Quốc » Minh » Bồ Tùng Linh » Liêu trai chí dị
Đăng bởi Budō wéi Osu vào 06/07/2025 15:09, đã sửa 6 lần, lần cuối bởi Budō wéi Osu vào 06/07/2025 15:43
披蘿帶荔,三閭氏感而為騷;牛鬼蛇神,長爪郎吟而成癖。自鳴天籟,不擇好音,有由然矣。
松落落秋螢之火,魑魅爭光;逐逐野馬之塵,罔兩見笑。才非干寶,雅愛搜神;情類黃州,喜人談鬼。聞則命筆,遂以成編。久之,四方同人,又以郵筒相寄,因而物以好聚,所積益夥。
甚者:人非化外,事或奇於斷髮之鄉;睫在眼前,怪有過於飛頭之國。遄飛逸興,狂固難辭;永託曠懷,癡且不諱。展如之人,得毋向我胡盧耶?然五父衢頭,或涉濫聽;而三生石上,頗悟前因。放縱之言,有未可概以人廢者。
松懸弧時,先大人夢一病瘠瞿曇,偏袒入室,藥膏如錢,圓粘乳際。寤而松生,果符墨誌。
且也:少羸多病,長命不猶。門庭之淒寂,則冷淡如僧;筆墨之耕耘,則蕭條似鉢。每搔頭自念:勿亦面壁人果是吾前身耶?蓋有漏根因,未結人天之果;而隨風蕩墮,竟成藩溷之花。茫茫六道,何可謂無其理哉!
獨是子夜熒熒,燈昏欲蕊;蕭齋瑟瑟,案冷疑冰。集腋為裘,妄續幽冥之錄;浮白載筆,僅成孤憤之書:寄託如此,亦足悲矣!
嗟乎!驚霜寒雀,抱樹無溫;弔月秋蟲,偎闌自熱。知我者,其在青林黑塞間乎!
康熙己未春日。柳泉居士題。
Phi la đới lệ, Tam Lư thị cảm nhi vi Tao; ngưu quỷ xà thần, trường trảo lang ngâm nhi thành tích. Tự minh thiên lại, bất trạch hảo âm, hữu do nhiên hĩ.
Tùng lạc lạc thu huỳnh chi hoả, si mị tranh quang; trục trục dã mã chi trần, võng lưỡng kiến tiếu. Tài phi Can Bảo, nhã ái Sưu thần; tình loại Hoàng Châu, hỉ nhân đàm quỷ. Văn tắc mệnh bút, toại dĩ thành biên. Cửu chi, tứ phương đồng nhân, hựu dĩ bưu đồng tương ký, nhân nhi vật dĩ hảo tụ, sở tích ích khoả.
Thậm giả: Nhân phi hoá ngoại, sự hoặc kỳ ư đoạn phát chi hương; tiệp tại nhãn tiền, quái hữu quá ư phi đầu chi quốc. Thuyên phi dật hứng, cuồng cố nan từ; vĩnh thác khoáng hoài, si thả bất huý. Triển như chi nhân, đắc vô hướng ngã hồ lư da? Nhiên ngũ phụ cù đầu, hoặc thiệp lạm thính; nhi tam sinh thạch thượng, phả ngộ tiền nhân. Phóng tung chi ngôn, hữu vị khả khái dĩ nhân phế giả.
Tùng huyền hồ thì, tiên đại nhân mộng nhất bệnh tích Cồ Đàm, thiên đản nhập thất, dược cao như tiền, viên niêm nhũ tế. Ngụ nhi tùng sinh, quả phù mặc chí.
Thả dã: Thiểu luy đa bệnh, trường mệnh bất do. Môn đình chi thê tịch, tắc lãnh đạm như tăng; bút mặc chi canh vân, tắc tiêu điều tự bát. Mỗi tao đầu tự niệm: Vật diệc diện bích nhân quả thị ngô tiền thân da? Cái hữu lậu căn nhân, vị kết nhân thiên chi quả; nhi tuỳ phong đãng đoạ, cánh thành phiên hỗn chi hoa. Mang mang lục đạo, hà khả vị vô kỳ lý tai!
Độc thị Tí dạ huỳnh huỳnh, đăng hôn dục nhị; tiêu trai sắt sắt, án lãnh nghi băng. Tập dịch vi cừu, vọng tục u minh chi lục; phù bạch tải bút, cận thành cô phẫn chi thư: ký thác như thử, diệc túc bi hĩ!
Ta hồ! Kinh sương hàn tước, bão thụ vô ôn; điếu nguyệt thu trùng, ôi lan tự nhiệt. Tri ngã giả, kỳ tại thanh lâm hắc tắc gian hồ!
Khang Hy Kỷ Mùi xuân nhật. Liễu Tuyền cư sĩ đề.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Budō wéi Osu ngày 06/07/2025 15:46
Đai dây áo lá, họ Tam Lư ngùi cảm viết văn Tao; Thần rắn ma trâu, cậu dài móng ngâm nga thành bệnh nghiện. Thú ngâm vịnh thiên nhiên tự thích, câu dở hay có chọn làm chi? Ấy như thế, phải vậy.
Tùng: Một ngọn đèn xanh lửa đóm, hắt hiu tranh sáng với loài ma; Bao phen dặm cát bụi hồng, tất tả khêu cười cho lũ quỷ. Tài học ví đâu Can Bảo, sách Sưu thần muốn chép như ai. Tình hoài giống với Hoàng Châu, truyện ma quỉ thích nghe người nói. Nghe câu nào chép câu ấy, góp truyện ngắn nên tập dài. Ngày lâu càng lắm nơi gởi cho, người thích cho nên của tìm đến.
Nhiều quá đến: Rõ việc người đời hiện đó, lạ lùng nới cắt tóc còn thua. Cái lông trước mắt không xa, quái gở nước bay đầu chưa đến thế. Vung vênh lúc hứng, chẳng quản ngông cuồng. Chuếnh choáng vui lòng, kiêng gì ngây dại. Người đời ai đó, khỏi sao lắm kẻ cười ta ru. Nhưng ngã ba đường cái, dù truyện nghe câu được câu chăng. Mà hòn đá ba sinh thì hiểu có kiếp sau kiếp trước. Câu nói liều lĩnh chưa hẳn đã nên vì mình mà bỏ qua.
Tùng, trong lúc treo cung, tiêu đại nhân mộng thấy một vị Cồ Đàm gầy ốm, trần một cánh tay mà đi vào nhà, có miếng thuốс cao tròn như đồng tiền, dán ở nơi chỗ vú. Tỉnh thời Tùng đẻ ra, nốt ruồi đen đúng như thế.
Đã thế lại: Lúc bé gấy gò lắm bệnh, lớn lên số mệnh kém người. Sân nhà vắng lạnh như buồng sư. Bút mực kiếm ăn như cái bát. Lắm lúc vò đầu tự nghĩ: Có lẽ người nhìn mặt vào trong vách đá, chính là đời trước của ta ru? Hẳn chi rò rủa căn nhân, người trời vẫn chưa đây quả phúc. Mà mới gió đưa rơi rụng, giậu bùn nên nỗi tủi thân hoa. Sáu đường man mác, chớ nên cho lẽ đó là không vậy.
Chỉ như nay: Đêm vắng canh khuya, đêm tàn vạc bấc. Buồng văn gió lót, án lạnh ngờ băng. Góp da nách làm áo cừu, nổi khuấy U Minh câu chuyện cũ. Rót chén rượu vần quản bút, học theo Cô Phẫn sách người xưa. Trăm năm thân thế, như thế mong nhờ, nghĩ đáng ngùi thương vậy.
Than ôi! Sợ sương con én lạnh, ôm cây nào có ấm gì thân. Viếng nguyệt cái trùng bay, ấp triện còn mong hơi có nóng. Biết ta ai hỡi, có chăng nơi ải tối, rừng xanh.
Năm Kỷ Mùi, đời Khang Hy, ngày mùa xuân. Liễu Tuyền cư sĩ đề tựa.