Hải Vân (
16.201,108.133): Hải Vân là dãy núi tách từ rặng núi của dãy Bạch Mã (là một phần của dãy Trường Sơn) đâm ra biển, chóp vướng mây trời, chân dầm nước biển, ngọn núi cao nhất 1.172m so với mực nước biển. Trên dãy núi này có đèo Hải Vân nằm trên quốc lộ 1 ở ranh giới thành phố Huế (ở phía Bắc) và thành phố Đà Nẵng (ở phía Nam), đường đèo cao 500m, dài 20km.
Trước thời Trần, vùng đất có đèo Hải Vân thuộc về hai châu Ô, Rí của vương quốc Champa (Chiêm Thành). Sau khi được vua Champa là Chế Mân cắt làm sính lễ cầu hôn Công chúa Huyền Trân đời Trần vào năm 1306, thì ngọn đèo chính là ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành. Năm 1402, nhà Hồ (dưới triều Hồ Hán Thương) sai tướng Đỗ Mãn đem quân sang đánh Chiêm Thành, khiến vua nước ấy là Ba Đích Lại (Jaya Sinhavarman V) phải cắt đất Chiêm Động và Cổ Luỹ để cầu hoà. Kể từ đó, cả vùng đất có đèo Hải Vân mới thuộc hẳn về nước Đại Ngu (tức Việt Nam ngày nay), và trở thành ranh giới tự nhiên của hai xứ Thuận Hoá và Quảng Nam, như sách
Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn đã chép: “Hải Vân dưới sát bờ biển, trên chọc từng mây là giới hạn của hai xứ Thuận Hoá và Quảng Nam”. Vào thời Nguyễn, đèo Hải Vân vẫn là chỗ giáp giới giữa Thừa Thiên và Quảng Nam, phía bắc chân núi giáp vực biển có hang Dơi, tục gọi là bãi Tiêu. Tương truyền xưa có thần sóng, thuyền đi qua đó thường bị lật chìm, nên ngạn ngữ có câu: “Đường bộ thì sợ Hải Vân, Đường thuỷ thì sợ sóng thần Hang Dơi”.
Trước đây núi còn được gọi là Ải Lĩnh, đèo còn gọi là Ải Vân vì trên đỉnh đèo có một cửa ải. Dân gian thường gọi là Ngải Lĩnh vì trên núi này có mọc nhiều cây ngải, tương truyền đến mùa hoa nở, gió thổi bay xuống biển, cá ăn được sẽ hoá thành rồng. Cửa ải này được xây từ thời nhà Trần. Vua Lê Thánh Tông khi dừng chân ngắm cảnh ở đây đề tặng cho ải danh hiệu “Thiên hạ đệ nhất hùng quan” 天下第一雄關. Năm 1826, vua Minh Mạng cho trùng tu và đặt tên là Hải Vân quan 海雲關, và từ đó người ta cũng quen gọi núi và đèo là Hải Vân.

Hình: Cung đèo Hải Vân

Hình: Cửa ải cũ trên đèo Hải Vân