遇三登范公登講

香水屏山自古如,
不知國運有同居。
酒茶筵上宜無醉,
我你歸懷妙有思。
得意亦當須正直,
失時先料守耕鋤。
來年必遇家鄉處,
請祝平康在草蘆。

 

Ngộ Tam Đăng Phạm công Đăng Giảng

Hương thuỷ Bình sơn tự cổ như,
Bất tri quốc vận hữu đồng cư.
Tửu trà diên thượng nghi vô tuý,
Ngã nhĩ quy hoài diệu hữu tư.
Đắc ý diệc đương tu chính trực,
Thất thì tiên liệu thủ canh sừ.
Lai niên tất ngộ gia hương xứ,
Thỉnh chúc bình khang tại thảo lư.

 

Dịch nghĩa

Nước sông Hương, đá núi Bình từ xưa vẫn thế,
Chẳng biết vận nước có thế hay không?
Rượu chè trên mâm không nên say xưa,
Tôi và ông trở về nên suy nghĩ kế hay.
Nếu đắc chí cũng nên giữ điều ngay thẳng,
Nếu thất thế phải lo công việc cấy cầy.
Sang năm chắc sẽ gặp nhau ở chốn quê,
Xin chúc yên ổn khoẻ mạnh nơi lều cỏ.


Bài thơ được chép trong sách Thiên gia thi tuyển của Nguyễn Đức Huy ở xóm Bình An, xã An Nhân, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương.

Phạm Đăng Giảng người xã Tam Đăng, huyện Đại An, là con trai của tiến sĩ Phạm Văn Nghị. Ông đỗ cử nhân khoa Giáp Tý (1864), phó bảng năm 1865, làm quan Bố chính Thanh Hoá, về cư tang, cải bổ Thượng biện tỉnh vụ rồi mất. Ông cùng chí hướng với cha Phạm Văn Nghị nhưng sự nghiệp đánh Pháp của hai cha con không thành. Có lẽ ông và tác giả gặp nhau ở Huế.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Dương Văn Vượng

Núi Ngự sông Hương còn nếp cổ,
Không hay vận nước có theo như.
Nghĩ về, tôi bác lo khôn khéo,
Chớ mải say sưa lúc rượu chè.
Đắc chí trong tân nên chính trực,
Thất cơ liệu trước việc cày bừa.
Gặp nhau năm tới nơi quê quán,
Xin chúc bình an chốn thảo lư.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Sông Hương, núi Ngự vẫn như xưa,
Vận nước chẳng hay có mạnh chưa?
Tôi với ông về nên nghĩ kế,
Rượu chè mâm cổ chẳng say sưa.
Đắc thời nên giữ điều ngay thẳng,
Thất thế phải lo việc cầy bừa.
Sẽ gặp sang năm quê chốn cũ,
Chúc yên khoẻ mạnh chốn lều xưa.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời