Chưa có đánh giá nào
Thể thơ: Phú
Thời kỳ: Hiện đại
1 người thích
Từ khoá: văn tế (96) điếu tế (258)

Đăng bởi Vanachi vào 10/07/2008 08:51

Hỡi ôi!
Thánh dạng muôn trùng;
Vân xa khuất vết.

Trên Nam phương mẹ đỏ nên lòng;
Dưới Cồ Việt dân đen lộn tiết.

Ngựa Đà Lạt rầy buông cương thả cỏ, vắng chủ lên yên;
Chim Ngự Bình nay tải cánh phơi lông, không ai bắn thịt.

Điện Cần Chánh thường lão thần một lũ, mặt thảm như tang;
Thành Ba Lê chúc thiếu để rảnh mình, lòng vui tựa tết!

Nhớ vương xưa:
Vóc đẫy ba ôm;
Mình cao bảy mét.

Trí dũng lắm trò;
Võ văn ra phết!

Văn: Lang Sa nửa khoé tú tài;
Võ: Quốc hội trưởng ban tơ-nít.

Ăn uống "cẩm" đế vương âu Mỹ: trưa "bơ", sáng sữa, tối "súp la-ghim";
Áo quần "mốt" hoàng tử Ga-lơ: hạ "soóc", đông "gôn", xuân "ca-sịt-két".

Lên chín tuổi đã xuất dương du học, bỏ mẹ, lìa cha;
Hai mươi xuân mới về nước lên ngai, phò Tây, trị Việt.

Tài kinh quốc nổi danh ba cõi: nay đụng xe, mai sa hố, trải mấy gian lao;
Đức an dân lưu tiếng ngàn thu: khi tiễu cọp, lúc trừ hươu, dựng bao công nghiệp!

Nền kinh tế cũng khổ công kiến thiết: đúc tiền trinh bằng vẩy ốc cho nước thêm giàu;
Nếp công thương bằng nhọc trí chấn hưng: đội mũ kiểu mu rùa cho dân bắt chước.

Ân đức vãi vung núi Ngự, có Thổ công soi;
Tài ba tung tẩy sông Hương, có Hà bá xét.

Nào ngờ:
Thế sự xoay chiều;
Thời cơ đổi nếp.

Việc hoàn cầu rối tít bòng bong;
Bom lục địa nổ ran pháo xiết.

Xa thì đấy Âu châu nhiễu loạn, bọn quốc xã vốn nghề lật lọng, gây hoạ xâm lăng;
Gần thì kia Trung Quốc điêu linh, quân Nhật Hoàng quen thói tham lam, gieo tai phát-xít.

Cảnh ba đào nhường doạ của Ngọ môn;
Nạn binh lửa muốn nhòm cổng Khánh tiết.

Sĩ phu nghiêng ngả: đổ nghiệp nguy tai;
Quần chúng giấy lên: cơ đồ hỏng bét.

Bụng mẫu quốc kể ra đã gớm, để đối phó lại tình thế ấy quyền bung sung hứa giăng tán cuội, miếng đỉnh chung, vương tưởng bở đã mừng;
Miệng nhân gian nghĩ lại càng ghê, quyết lột tẩy ra âm mưu này, gây dư luận vạch mặt chỉ tên, câu lăng nhục họ cho ra chẳng tiếc.

Lúc phẫn chí những ức trào chi nước mắt, ruộng dưa toan giả chủ, sức trâu bò thây kệ chúng húc nhau;
Khi hồi tâm đành cố đấm chi ăn xôi, mũ phớt mượn bưng tai, thân ruồi muỗi lại lo mình chết chẹt!

Ôi thôi thì:
Ở chỉ thêm rày;
Đi cho đỡ mệt.

Đất An Nam cảnh cỗi người cằn;
Nơi hải ngoại rượu nồng gái đẹp.

Cuộc thương thuyết Ba Lê mà ngã giá, dựa nương sẵn bóng, cũng ổn một đời;
Mông hoa đăng xóm Mông-mác miễn thâu đêm, sống thác vì tình cho cam một kiếp.

Nên đây:
Này bốt, này hia;
Này "can" này "píp".

Này "may-ô", "xi-líp" mùa hè;
Này "sịt-mốc", "măng-tô" vụ rét.

Vàng cốm trăm lô;
Xe mây một chiếc.

Đứng tiễn Vương có những tên Bình, tên Bổng, tám tháng cách bỗng xa người nấp gối, lũ chó cụp đuôi;
Trông theo, Vương có các bô Phạm, bô Hoàng, bảy năm ròng nay vắng Chúa ôm chân, đàn gà bới bếp.


Năm 1939, Vĩnh Thuỵ tuân lệnh bọn thực dân, kéo lũ cận thần sang Pháp để giả vờ vận động "mẫu quốc" trao trả Bắc Kỳ cho triều đình Huế, đúng với tinh thần hiệp ước 1884. Nhưng cái âm mưu định đẩy nhân dân Việt Nam dưới hai tầng áp bức bóc lột của đế quốc thực dân và phong kiến bù nhìn đã bị báo chí của Cộng sản Đông Dương hồi bấy giờ vạch trần ra, khiến nhân dân phản đối rất sôi nổi. Bài này làm trong dịp đó. Nhưng bị kiểm duyệt của thực dân Pháp cấm ấn hành.