Chưa có đánh giá nào
Ngôn ngữ: Tiếng Nga
3 bài trả lời: 2 bản dịch, 1 thảo luận

Đăng bởi Tung Cuong vào 14/02/2022 05:32

XXXI

Когда ж, и где, в какой пустыне,
Безумец, их забудешь ты?
Ах, ножки, ножки! Где вы ныне?
Где мнете вешние цветы?
Взлелеяны в восточной неге,
На северном, печальном снеге
Вы не оставили следов:
Любили мягких вы ковров
Роскошное прикосновенье.
Давно ль для вас я забывал
И жажду славы, и похвал,
И край отцев, и заточенье?
Исчезло счастье юных лет —
Как на лугах ваш легкий след.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Tùng Cương

Bao giờ thế? Ở đâu? Trong vùng xa nào đấy?
Anh điên hỡi? Anh có quên đôi chân ấy
Thế mới là chân! Đang ở đâu phút giây này
Thảm hoa xuân nào được đón chân em nhẹ bay?
Chúng được dưỡng nuôi trong phương đông hoan lạc
Đang lần bước trên tuyết buồn xứ bắc,
Chân em qua không để lại dấu vết nào:
Chân chỉ yêu thảm mềm dịu biết bao
Những lần chạm nhẹ chân sao quý giá.
Quyến luyến với chân lâu có làm tôi quên cả
Bao khát khao danh tiếng với thưởng khen,
Quê hương và nơi tù giam có bị lãng quên?
Đâu còn nữa hạnh phúc bao năm tuổi trẻ,
Chân em lướt, vết in mờ trên đồng cỏ.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Thái Bá Tân

Ôi, ở đâu, bao giờ tôi quên được,
Tôi, thằng điên, quên được cặp chân này?
Đâu, ở đâu chân bây giờ đang bước,
Dẫm nhẹ nhàng lên ngọn cỏ, lá cây?
Trong cái ấm của phương Đông mê hoặc,
Trong cái lạnh của tuyết rơi phương Bắc,
Đôi chân kia không để lại vết gì,
Thích dịu dàng trong mỗi bước chân đi,
Thích khẽ chạm vào thảm dày êm mát.
Ôi, vì chân, không biết tự bao giờ
Tôi đã quên vinh quang, không thèm khát,
Quên ngục tù, quên quê cũ, ước mơ?
Và hạnh phúc những ngày xa xưa nọ
Tan như dấu chân nàng trên bãi cỏ.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Chú thích của Nabôkôp

Chú thích của Nabôkôp
Ai là chủ “chiếc hài cườm pha lê“- “đôi chân tuyệt vời“trong khổ thơ XXXIII?

Việc đi tìm mỹ nhân nguyên mẫu là người thử vừa chân với đôi hài cườm pha lê trong khổ thơ XXXIII đã buộc không chỉ một thế hệ nhà nghiên cứu Puskin học phải thể hiện sự sáng tạo đặc biệt, hay tỏ ra ngây thơ, chất phác đến mức tột cùng. Ít nhất, có bốn người đẹp được dư luận chọn lựa là “mỹ nhân nguyên mẫu” chân ướm vừa đôi hài cườm pha lê ở trên (20).
1.Ta sẽ xem xét trường hợp đầu tiên - người có nhiều khả năng là ứng viên nguyên mẫu thứ nhất - Maria Raiepskaia.

Năm 1820, tuần cuối cùng trong tháng năm, một kế hoạch đầy hấp dẫn được thực hiện, kế hoạch này hình thành không sớm hơn một tháng trước đó. Tướng Nhikôlai Raiepski, một anh hùng thời chiến tranh vệ quốc chống Napoleon, đã lên đường cùng một trong hai con trai và hai trong bốn tiểu thư con gái ông, từ Kiep đến Piatchigorsk (miền Bắc Kavkaz); trên đường đi, khi đến Ekaterinoslav (ngày nay là Đnheprô Petrôpsk) gia nhập vào đoàn có Puskin, hai tuần trước đó, Puskin bị buộc rời khỏi Peterburg đến nhận sự quản thúc của một viên tướng khác, vốn có cảm tình với Puskin, đó là tướng Ivan Indôp. Đoàn đi gồm con trai Nhikôlai, là bạn thân của Puskin; hai cô con gái Maria, mười ba tuổi rưỡi, và Sô phia, mười hai tuổi; một nhũ mẫu người Nga, một nữ gia sư người Anh, (cô Matten), một thiếu nữ tác ta (dame de compagnie), Anna huyền bí sẽ được nói tới phần dưới đây. bác sỹ (bác sỹ Rudưkôpski) và một gia sư người Pháp (Phủnhie). Con trai trưởng Aleksandr, mà Puskin còn chưa quen biết, đã đợi sẵn ở Piatchigorsk, trong tháng tám cả đoàn sẽ đến Gurzup (Nam Crưm), thăm bà Raiepskaia cùng hai cô con gái lớn (Ekaterina và Elena).

Ngay đoạn đường ngắn đầu tiên, từ Ekaterinaslav đến Taganrog, đã giúp nhà thơ thoát khỏi bệnh sốt cao mà chàng mắc phải khi ở Đnhepr. Một lần vào sáng sớm, ngày 30 tháng năm, khi đến giữa đường đi từ Sambek và Taganrog, thì năm vị khách nữ trên một trong hai xe ngựa chở đông người- đó là hai bé gái, một nhũ mẫu già và một gia sư cùng cô bạn- đã nhìn thấy cảnh phía biển bên phải từng cơn sóng nhấp nhô tung bọt trắng xoá và mọi người xuống xe đổ ra biển ngắm cảnh sóng nước vỗ chập chùng. Nhà thơ trẻ Puskin từ chiếc xe thứ ba lặng lẽ bước xuống theo mọi người.

Sau một mùa hè qua lại khu suối nước nóng ở Kavkaz, Puskin đã rơi vào tầm ảnh hưởng của Aleksandr Raiepski vốn rất xấu tính, những người trong đoàn du lịch của ta, trừ Aleksandr ra, đều đi Crưm và rạng sáng ngày 19 tháng 8 năm 1820, đoàn đã đến Gurdup. Trong quãng thời gian bốn năm tiếp theo, Puskin có vài lần gặp Maria Raiepskaia. Tất nhiên, các nhà nghiên cứu về Puskin không được phép bỏ qua những bức vẽ của Puskin trên lề các bản thảo., chẳng hạn, trong phác thảo khổ IXa, chương 2, đối diện với các dòng 6-14,;

Puskin vào cuối tháng 10 hay đầu tháng 11 năm 1823, khi ở Ôddessa có dùng bút vẽ hình nhìn nghiêng của một phụ nữ đội mũ, qua hình vẽ, ta dễ dàng nhận ra Maria Raiepskaia (khi nàng đã gần 17 tuổi), phía trên hình vẽ này, nhà thơ vẽ chính bản thân mình, lúc đó Puskin đã cắt tóc ngắn, [231]. Nếu khổ XXXIII, chương 1, cuối cùng là nói tới chính đôi chân nuột nà được sóng biển vỗ về, vuốt ve, thì cảm tưởng của nhà thơ thật sự đầy mê hoặc và làm lộ rõ “những niềm hân hoan xa xưa“(những bức vẽ thể hiện hình ảnh Maria Raiepskaia, ta tìm thấy trong cuốn vở 2369, tr.26, mặt sau, 27 mặt sau, 28-30 mặt sau, hãy xem chú thích của tôi với chương I2, IXa).

Năm mười tám tuổi, nàng lấy chồng (tháng giêng năm 1825). Chồng nàng là bá tước Sergây Vôlkônski, một nhà cách mạng tháng Chạp nổi tiếng, là thành viên của hội miền Nam, bị bắt sau khi cuộc nổi dậy ờ Peterburg thất bại vào ngày 14 tháng 12 năm 1825. Người vợ trẻ rất can trường lên đường đi theo chồng về nơi đầy tận Xibir xa xôi, nhưng khi đến đây, lại xảy ra câu chuyện rất đời thường, người vợ đã đem lòng yêu một nhà cách mạng tháng Chạp khác. Một giai đoạn dũng cảm trên đường đời của nàng, được Nhecrasôp ca ngợi trong một trường ca dài lê thê và chán ngắt, thơ không hay, không xứng đáng với thiên tài thật sự, và thật buồn, “Những người phụ nữ Nga”(1873), trong bản viết tay có tên là “Những người phụ nữ tháng Chạp”), một tác phẩm yêu thích của những bạn đọc coi tính xã hội của chủ đề quan trọng hơn tác động nghệ thuật của nó. Trong cả bài, tôi chỉ thích hai câu thuộc phần hai, có tính nhạc điệu cao hơn, trong đoạn nói về công việc làm của những nhà cách mạng tháng Chạp:
Làm sưu tập bướm và thực vật Trita,
Các cảnh một miền quê sao mà khốc liệt
Qua tháng 11 năm 1823, Puskin nếu có gặp Maria Raiepskaia thì phải đến tận 26 tháng 12 năm 1826 tại Matxcơva (tại nhà của con dâu nữ bá tước Dinaida Vôlkônskaia), vào hôm trước ngày đi theo chồng đến Xibir, khu Nhertrinsk, trong mỏ Blagowđátki, cách Matxcơva bốn nghìn dặm. Ngày 27 tháng 10 năm 1828, tại Malinhik thuộc tỉnh Tver, Puskin đã viết lời đề tặng nổi tiếng cho trường ca “Pôltava “(16 dòng thơ, thể Iamb, vần cách abab), theo ý kiến nhiều người, lời đề tặng này viết tặng Maria Vôlkônskaia:

Tiếng nàng thơ tôi trong đêm vắng
Đôi tai em có nghe thấu không em?
Tâm hồn em khiêm nhường lắm
Có hiểu ra tiếng nói con tim tôi?
Hay lời thơ tôi tặng em rồi,
Như mối tình tôi ngày nào đó
Ngỏ cùng em mà em chẳng trả lời
Và em lại bước qua một lần nữa?
Em hãy nhớ những thanh âm dù ít nhất,
Vốn thân thương tha thiết với em -
Em hãy nghĩ những ngày ta xa cách,
Trong cuộc đời đầy xáo động của tôi,
Sự cách xa buồn bã của em,
Tiếng em nói lần cuối cùng nhớ mãi
Là kho báu, là thành trì vững chãi,
Là tình yêu theo mãi tâm hồn tôi.

Trong bản thảo viết tay và chụp lại đoạn thơ đề tặng có viết bằng tiếng Anh:”I love this sweet name»(Tôi yêu cái tên ngọt ngào này),[232] (nữ nhân vật trong “Pô ltava” có tên Maria). Tôi rất muốn được tận mắt nhìn thấy bức vẽ này (cuốn vở 2371, tờ 70), theo lời Bônđi (Viện Hàn lâm, 1948, tập V, tr. 324), có dòng thơ 13, ở dạng đang sửa, bị bỏ đi, như sau:
Miền Xibir xa xôi lạnh lẽo.
Đây là bằng chứng duy nhất, làm cơ sở cho giả định này, rằng “Pô ltava “được viết tặng Maria Vô lkônskaia. Bạn đọc sẽ luôn thấy sự giống nhau đến mức khác thường giữa các câu thơ 11-16 trong lời đề từ cho “Pô ltava” và giữa các dòng 9-14 khổ XXXVII, chương 7, EO (được sáng tác trước đó một năm), trong đoạn thơ này, nhà thơ đã nhắc đến việc kết thúc thời kì đi đầy ở làng quê của mình, nhà thơ đã nói với Matxcowva như nói với nữ hoàng goá bụa của mọi thành phố Nga.

2.Ứng viên thứ hai vào vai chủ nhân đôi chân đẹp trong khổ XXXIII chương I là chị cả của Maria Raiepskaia, tên Ekaterina, hai mươi hai tuổi, (năm 1821, lấy chồng là Mikhail Orlốp, một trong nhiều nhà cách mạng tháng Chạp, có địa vị bình thường). Trong thời gian, khi mọi người còn lại đang đi du lịch, thì Ekaterina cùng với mẹ và chị Elena đã thuê một toà villa không xa Gur dup - một làng Tác ta trên bờ biển tuyệt đẹp phía Nam Crưm, với nhiều mỏm đá rất hoành tráng, những con đường cây mọc hai bên lộ khoe hết bộ rễ ra, và nhiều mái nhà thờ hiện ra mờ mờ ảo ảo, những rặng cây trắc bá trông tối sẫm, nhũng căn nhà gỗ và bóng cây thông tuyệt vời, với những cao nguyên đá phẳng nhô ra, như treo mình cao hơn chung quanh, nhìn từ biển vào, có cảm tưởng như là cả dãy núi chạy dài, nhưng chỉ cần ta bước đến gần, thì thấy nó lại biến hoá thành một thảo nguyên phủ kín cỏ rậm, mượt mà, như vươn dài mãi về phương Bắc. Chính ờ đây, tại Gurdup, Puskin cùng với hai con trai nhà Raiepskaia, cậu lớn và cậu nhỏ, và hai cô con gái Maria và Sô phia- lên thuyền hai cột buồm, buồm phẳng, khởi hành từ Pheôđôxia vào ngày 19 tháng 8 năm 1820, Puskin đã làm quen với Ekaterina Raiepskaia. Xem kể chi tiết hơn về chuyến đi này, trong phần chú thích của tôi với khổ XVI, “Chuyến du lịch của Ônheeghin” trong phần này, Puskin, sau mười năm, đã viết những dòng thơ tạm được khi nhớ lại cuộc tình chớp nhoáng sau ánh nhìn đầu tiên:
Đẹp làm sao những bờ biển Tavrida,
Từ trên tầu thấy dáng em hiện ra,
Kiprida trong buổi mai rực sáng,
Lần đầu dung nhan em tôi say đắm,

Đây là một mỹ nhân trẻ tuổi, đầy kiêu hãnh, đẹp đến mức như thiên thần - đó là hình ảnh Puskin tả lại người đẹp trong khổ XVII “Chuyến du lịch của Ônheghin”, khi đứng giữa cảnh sóng biển xô vào bờ, những khối đá nhô ra và những hình ảnh lãng mạn. Có thể, đây là những vần thơ ca ngợi viết tặng nàng “Mây từng đám bay đi, loang tan hết…(182, thể thơ Alessandro, vần đôi), thiếu nữ được ví như nữ thần Venhera, đang cố tìm ra sao Venhera trên bầu trời (Theo nhận xét của N. Kudnhesốp trong “Thế giới luận”[1923], tr. 88-89, với thời gian và địa điểm cụ thể -tháng 8 năm 1820, Crưm - là việc không thể làm được.)và gọi nàng theo tên riêng, đã lẫn lộn một cách hài hước, hình như, katharos và Kypris, Kitti R. Và Kythereia (Ekaterina bị gọi là “tất xanh”, vì là người hơi khác biệt, mang tính nam rõ hơn, không thích lập gia đình)(22)
Ở lại thành phố Gủdup, trong ba tuần, có lẽ, Puskin có nghe do Katerina (“Gửi”- xem phần phụ chương Đài phun nước Bakhtrisaraiski” 1822) kể truyện thần thoại tác ta về đài phun nước trong lâu đài Bakhtrisaraiski, là nơi, sau này, chừng 5 tháng chín 1820, nhà thơ đã cùng với Nhikôlai Raiepski trên đường đi miền Bắc, một vấn đề khác được đặt ra là, các làn sóng nước tung bọt trắng xoá trên biển Đen có dịp nào, dù chỉ một lần, được vuốt ve, ôm hôn đôi chân người đẹp hay không nhỉ.

3.Đến đây, là lúc phải chia tay với hai chị em nhà Raiepskaia, chúng tôi xin giới thiệu ứng viên thứ ba cho chiếc hài cườm pha lê

6-8.Puskin đã viết bài này vào ngày 22 tháng mười năm 1823 ở Ôdesa, bảy tháng sau đó, bên lề bản thảo viết tay chương 3, XXIX (2370, л. 2; Эфрос, с. 197), cạnh các dòng 6-8:
Tôi thấy thú chiêu vay từ Pháp văn nhiều quá
Hệt như sai lầm của tuổi trẻ trước kia,
Như các bài thơ của Bogđanôvích ta mê,

Nhà thơ đã vẽ một đôi chân phụ nữ đi tất trắng để chéo lên nhau lộ ra dưới lớp váy áo lịch lãm, mang giày đen mũi nhọn đánh xi bóng, có tết nơ ở phần đế. Éphrôs cho rằng, những dòng thơ này viết về Elidaveta Vôrôntsôva, bức chân dung của nàng (trừ đôi chân) được vẽ phác bên phải tại ngay trang đó trong bản thảo, trên các dòng thơ và ngay giữa các dòng đó. Quả thật, trên cổ cân đối không thấy đeo chuỗi vòng. Đoạn phác thảo chương 3, XXIX được ghi chú lấy ngày 22 tháng năm 1824 - ngày này (2370, tờ1) có ghi trong bản nháp bức thư nổi tiếng của Puskin (được dừng ở hình vẽ nghiêng của Elida Vôrôntsôva trên tờ 2), gửi cho Aleksandr Kadnatrêép (1788-1880), giám đốc văn phòng của bá tước Vôrôntsôp, một người tốt bụng và đáng yêu. Trong thư này, Puskin giải thích rằng, việc thực thi trách nhiệm của một nhân viên dưới trướng của vị tướng là thị trưởng thành phố Nôvơrasítk sẽ không giúp ích nhiều cho hoạt động sáng tác văn học của nhà thơ.

Do muốn vẫn được chính thức đăng kí là nhân viên thuộc văn phòng, Puskin có bệnh giãn tĩnh mạch (sensu stricto [338] là hiện tượng giãn tĩnh mạch không bình thường, do thành động mạch tim bị bệnh, thực ra, Puskin bị giãn tĩnh mạch chân, các bác sỹ đã chẩn đoán như vậy vào cuối tháng chín năm 1825 ở Pskôp, sau một lần, nhà thơ định dùng “bệnh giãn tĩnh mạch nguy hiểm chết người “để lấy li do xin phép ra nước ngoài chữa bệnh, nhưng bất thành, nhà thơ xin chính quyền “để mình yên, không động tới trong một đoạn thời gian sống còn lại ngắn ngủi, có thể, sẽ không còn bao lâu nữa.” (những dòng này đã kết thúc bức thư tại tờ 2; “Lời phê: “Đúng” bị chìm nghỉm, mất dạng trong hình vẽ mái tóc của Elida Vôrôn tsôva).
Raiepskl, chắc chắn, đã tiếp xúc với bức thư của Tachiana; như vậy, bức thư này được viết từ trước khi Puskin rời khỏi Odessa.

4.Còn mỹ nhân thứ tư có thể là ứng viên chủ nhân hài cườm pha lê, theo một vị tên là Đarski, vị này có sáng kiến được đưa ra thảo luận và bị bác bỏ thẳng cánh, trong một buổi tối lạnh lẽo và thiếu ánh sáng, 21 tháng 12 năm 1922, bởi Hội những người yêu quý tiếng Nga, họ đầy tinh thần quả cảm họp trong điều kiện đói ăn và tăm tối, thời Lênin trị vì.[243] Đarski tuyên bố nữ chủ nhân đôi “hài cườm pha lê - đôi chân đẹp nuột nà“trong khổ thơ XXXI và XXXIII là bạn của hai người đẹp nhà Raiepski, đó là người đẹp tác ta đã nói trên: Anna Ivanôpna (ta không biết họ của nàng).
Cảm tưởng cuối cùng của tôi: nếu Ekaterina Raiepskaia là chủ nhân một chiếc hài cườm pha lê, thì Elidaveta Vôrônsôva là chủ nhân chiếc hài còn lại. Nói khác đi là, những cảm xúc ở Crưm vào tháng tám năm 1820 và những bài thơ viết tặng họ (được sáng tác khoảng 16 tháng tư năm 1822) vào tuần thứ hai tháng sáu 1824 đã được chuyển thành một khổ thơ trong EO, đã ghi lại cuộc tình say mê chớp nhoáng thời Ôddesa của nhà thơ.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời