王兵馬使二角鷹

悲臺蕭颯石巃嵷,
哀壑杈椏浩呼洶。
中有萬里之長江,
回風滔日孤光動。
角鷹翻倒壯士臂,
將軍玉帳軒翠氣。
二鷹猛腦徐侯穟,
目如愁胡視天地。
杉雞竹兔不自惜,
溪虎野羊俱辟易。
韝上鋒稜十二翮,
將軍勇銳與之敵。
將軍樹勳起安西,
崑崙虞泉入馬蹄。
白羽層肉三狻猊,
敢決豈不與之齊。
荊南芮公得將軍,
亦如角鷹下翔雲。
惡鳥飛飛啄金屋,
安得爾輩開其群,
驅出六合梟鸞分。

 

Vương binh mã sứ nhị giác ưng

Bi đài tiêu táp thạch lũng tũng,
Ai hác xoa nha hạo hô hủng.
Trung hữu vạn lý chi trường giang,
Hồi phong thao nhật cô quang động.
Giác ưng phiên đảo tráng sĩ tí,
Tướng quân ngọc trướng hiên thuý khí.
Nhị ưng mãnh não từ hầu tị,
Mục như sầu Hồ thị thiên địa.
Sam kê trúc thố bất tự tích,
Khê hổ dã dương câu tịch dịch.
Câu thượng phong lăng thập nhị phiên,
Tướng quân dũng duệ dữ chi địch.
Tướng quân thụ huân khởi An Tê (Tây),
Côn Luân Ngu tuyền nhập mã đề.
Bạch vũ tằng nhục tam toan nghê,
Cảm quyết khởi bất dữ chi tề.
Kiếm Nam Nhuế công đắc tướng quân,
Diệc như giác ưng há tường vân.
Ác điểu phi phi trác kim ốc,
An đắc nhữ bối khai kỳ quần.
Khu xuất lục hợp kiêu loan phân.

 

Dịch nghĩa

Trên cái nền xây ảo não đá lởm chởm,
Hang buồn cành cây kêu xào xạc.
Trong vùng con sông dài vạn dặm uốn quanh,
Gió lốc cả ngày, làm rung ánh trời.
Con chim ưng có sừng kia đậu trên tay người lính tráng kiện cứ ngọ ngoạy,
Ông tướng nơi trướng ngọc trang hoàng xanh biếc đầy vẻ uy nghi.
Chim ưng hai sừng, với bộ óc hùng mạnh khoan thai trên nóc bia bắn,
Cặp mắt giống như của người Hồ buồn nhìn đất trời.
Gà trên cây sam, thỏ nơi bụi trúc không biết tiếc,
Hổ nơi khe, dê nơi ruộng đều trốn chạy.
Trên cánh tay, chim ưng có mười hai lông vũ nơi chỏm nhọn kia,
Tướng quân hùng dũng ban hiệu lệnh cho ra đối địch.
Tướng quân gây dựng công lao khởi đầu từ vùng An Tây,
Vó ngựa vào suối Ngu nơi vùng Côn Luân.
Có vũ khí sắc bén đâm thấu ba tầng áo giáp,
Quyết chí há không cho ra đọ sao.
Vùng Kinh Nam thuộc đất Nhuế công có được tướng quân,
Y hệt như chim ưng có sừng lượn trên từng mây.
Các chim dữ bay quanh mổ nhà vàng,
Mong sao nhờ được bọn chim ưng có sừng này bay ra hoạt động,
Đuổi khỏi vùng trời và phân biệt đâu xấu như chim kiêu với tốt như chim loan.


(Năm 766)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Gió rít đài cao đá cả tảng,
Hang buồn cành lá rung loạng quạng
Chính giữa con sông vạn dặm dài,
Suốt buổi gió cuồng rung ánh sáng.
Trên tay tráng sĩ, ưng lênh khênh,
Trướng ngọc tướng quân choáng hiên xanh.
Ưng hai sừng ngóng chờ nhào xuống,
Mắt chăm chắm nhìn khắp xung quanh.
Gà tre thỏ bụi chẳng tự lo,
Hổ suối dê đồng đều cố tránh.
Mười hai lông nhọn vểnh trên tay,
Tướng quân hùng dũng cho ra đánh.
Tướng quân sự nghiệp từ An Tây,
Suối Ngu Côn Luân vó ngựa dày.
Vũ khí từng đâm xuyên qua thịt,
Dứt khoát một phen thử sức ngay.
Kiếm Nam vùng Nhuế có tướng công,
Hệt như chim ưng bay trên không.
Mổ nát nhà vàng bày chim dữ,
Sao được các ông quyết một lòng,
Làm rõ trắng đen, sạch trên không.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Đài bi thương với cây tàn rụng
Hang hốc buồn với giọng gió gào
Trường Giang một khúc chảy vào
Suốt ngày gió thổi ào ào sóng lay

Chim ó chao trên tay lính tráng
Tướng oai hùng vóc dáng hiên ngang
Hai con ó vẻ ngang tàng
Mắt buồn tựa gã Hồ đang nhìn trời

Gà thỏ rừng không lời tiếc mạng
Cọp cùng dê cao chạy xa bay
Mười hai lông cánh, ống tay
Tướng quân đã dạy chúng bài giao tranh

Chiếm An Tây lập nhanh công trận
Rồi Côn Luân, tới tận suối Ngu
Mũi tên lông trắng bay vù
Hạ ba sư tử, công phu ai bằng

Ngài Nhuế sứ Kinh Nam được tướng
Khác nào như có ó hạ mây
Chim ác tới mổ nhà đây
Có ông ra lệnh cho bầy ó cưng

Diệt, còn phân rõ kiêu-loan.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời