武侯廟

遺廟丹青落,
空山草木長。
猶聞辭後主,
不復臥南陽。

 

Vũ Hầu miếu

Di miếu đan thanh lạc,
Không sơn thảo mộc trường.
Do văn từ Hậu Chủ,
Bất phục ngoạ Nam Dương.

 

Dịch nghĩa

Miếu xưa nét vẽ xanh đỏ đã phai lạt,
Núi hoang vu cây cỏ mọc um tùm.
Còn nghe vẳng biểu xuất sư từ biệt Hậu Chủ,
Chẳng còn dịp trở về Nam Dương nằm khểnh.


(Năm 766)

Nguyên chú: “Miếu tại Bạch Đế tây giao” 廟在白帝西郊 (Miếu ở phía tây thành Bạch Đế).

Vũ Hầu là tước do Thục đế Lưu Bị phong cho Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, hiệu Ngoạ Long, người đất Dương Đô (quận Lang Nha, tỉnh Sơn Đông). Ông tị nạn về Kinh Châu, được Lưu Bị ba lần tới nhà tranh cầu cứu mới ra giúp, là người lắm mưu nhiều kế, giúp Lưu Bị khôi phục cơ đồ nhà Thục Hán. Khi Lưu Bị qua đời, ông hết lòng giúp Hậu Chủ là Lưu Thiện 劉禪, được phong tước Vũ Hương hầu 武鄉侯.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 2 trang (13 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Miếu xưa nét vẽ đỏ xanh phai,
Núi vắng um tùm cây cỏ gai.
Văng vẳng như nghe từ Hậu Chủ,
Nam Dương nằm khểnh dịp đâu hoài.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trần Đông Phong

Miếu vẫn đây sắc màu phai nhợt
Núi vắng không cây tốt cỏ tươi
Còn nghe Hậu Chủ biệt lời
Nam Dương quê cũ nằm ngơi chẳng về.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Tam Ngng

Miếu cũ tường bong tróc,
Núi hoang đầy cỏ dại.
Lời xuất sư còn nghe,
Người đi không trở lại.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời

Trang trong tổng số 2 trang (13 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2]