15.00
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Thất ngôn bát cú
Thời kỳ: Thịnh Đường
2 bài trả lời: 2 bản dịch

Đăng bởi tôn tiền tử vào 18/04/2015 06:34

十二月一日其一二

寒輕市上山煙碧,
日滿樓前江霧黃。
負鹽出井此溪女,
打鼓發船何郡郎。
新亭舉目風景切,
茂陵著書消渴長。
春花不愁不爛漫,
楚客唯聽棹相將。

 

Thập nhị nguyệt nhất nhật kỳ 2

Hàn khinh thị thượng sơn yên bích,
Nhật mãn lâu tiền giang vụ hoàng.
Phụ diêm xuất tỉnh thử khê nữ,
Đả cổ phát thuyền hà quận lang.
Tân Đình cử mục phong cảnh thiết,
Mậu Lăng trước thư tiêu khát trường.
Xuân hoa bất sầu bất lạn mạn,
Sở khách duy thính trạo tương tương.

 

Dịch nghĩa

Khói xám lạnh bay trên phố chợ núi,
Một ngày dài nơi con sông trước lầu, có đám mây màu vàng.
Cô gái khe này đội muối bước lên khỏi giếng,
Chàng trai quận nào, đánh trống thúc giục thuyền đi.
Nhướng mắt trông cảnh Tân Đình, thấy thật là đẹp,
Viết thư từ nơi Mậu Lăng, cứ bị bệnh tiêu khát hoài.
Hoa xuân không buồn, không vui,
Khách vùng Sở nghe thấy tiếng mái chèo lõm bõm.


(Năm 765)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Khói xanh nhẹ phủ trùm phố núi,
Trước lầu mây sông vàng, một chiều.
Gái khe: muối đội, giếng sâu thẳm,
Trai quận: trống vang, thuyền thẳng lèo.
Cảnh sắc Tân Đình, mắt coi đã,
Văn thơ Mậu Lăng, đường mất nhiều.
Hoa xuân không buồn không bắng nhắng,
Khách Sở nghe tiếng bì bọp chèo.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Khói biếc bay từ trên non chợ
Nắng chiếu lầu sương có màu vàng
Gái quê lên giếng muối mang
Trai quê đánh trống báo rằng thuyền đi
Cảnh thật đẹp đình khi mới lập
Thơ Mậu Lăng làm khát vọng tan
Không buồn chẳng thắm hoa xuân
Khách du đất Sở nghe toàn chèo khua.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời