Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Đỗ Phủ » Lưu vong làm quan (756-759)
Đăng bởi Vanachi vào 27/01/2009 03:56
北門天驕子,
飽肉氣勇決。
高秋馬肥健,
挾矢射漢月。
自古以為患,
詩人厭薄伐。
修德使其來,
羈縻固不絕。
胡為傾國至,
出入暗金闕。
中原有驅除,
隱忍用此物。
公主歌黃鵠,
君王指白日。
連雲屯左輔,
百里見積雪。
長戟鳥休飛,
哀笳曙幽咽。
田家最恐懼,
麥倒桑枝折。
沙苑臨清渭,
泉香草豐潔。
渡河不用船,
千騎常撇烈。
胡塵踰太行,
雜種抵京室。
花門既須留,
原野轉蕭瑟。
Bắc môn thiên kiêu tử,
Bão nhục khí dũng quyết.
Cao thu mã phì kiện,
Hiệp thi xạ Hán nguyệt.
Tự cổ dĩ vi hoạn,
Thi nhân yếm bạc phạt.
Tu đức sử kỳ lai,
Ky my cố bất tuyệt.
Hồ vi khuynh quốc chí,
Xuất nhập ám kim khuyết.
Trung Nguyên hữu khu trừ,
Ẩn nhẫn dụng thử vật.
Công chúa ca hoàng hộc,
Quân vương chỉ bạch nhật.
Liên vân truân tả phụ,
Bách lý kiến tích tuyết.
Trường kích điểu hưu phi,
Ai già thự u yết.
Điền gia tối khủng cụ,
Mạch đảo tang chi chiết.
Sa Uyển lâm Thanh Vị,
Tuyền hương thảo phong khiết.
Độ hà bất dụng thuyền,
Thiên kỵ thường phiết liệt.
Hồ trần du Thái Hàng,
Tạp chủng để kinh thất.
Hoa Môn ký tu lưu,
Nguyên dã chuyển tiêu sắt.
Người Hoa Môn đứa con trời đánh đó,
Là dân ăn thịt, tính tình ngược ngang.
Trời thu cao, ngựa béo mạnh,
Lắp tên bắn trăng nhà Hán.
Từ xưa đến nay vẫn thường gây hại,
Chuyện này đã từng được ghi chép trong thơ văn.
Lấy đức mà đối đãi với họ,
Thì đời đời sẽ giữ được mối giao hảo.
Tại sao lại bỏ cái chí nghiêng nước,
Để cho chúng ra vào nơi cửa vàng.
Vùng trung nguyên vì có loạn An Lộc Sơn,
Nên mới phải dùng đến người Hoa Môn.
Một công chúa đã hát bài hoàng hộc,
Vua đã từng chỉ mặt trời mà thề.
Nơi quân Hồi Hột mây trời vần vũ bay,
Tuyết đóng cả hàng ngàn dặm.
Dáo dài ngăn cản cánh chim bay,
Tiếng khèn nghe thật ai oán.
Nông dân thấy thế rất sợ hãi,
Lúa bung gốc, cành dâu gãy.
Nơi Sa Uyển, rồi sông Thanh, Vị,
Nơi cỏ thơm gió mát.
Chúng qua sông không dùng đến thuyền bè,
Lũ con trời ngang ngược như thế đó.
Bọn giặc làm tung bụi cho đến cả dãy núi Thái Hàng,
Giống quê mùa mà lên làm loạn thành thị.
Đã giữ người Hoa Môn lại,
Đồng bằng đến tan nát thôi.
Trang trong tổng số 1 trang (5 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Vanachi ngày 26/01/2009 03:56
Hoa Môn con trời cưng,
Ăn thịt khí hung hăng.
Giữa thu ngựa béo khoẻ,
Cắp tên xông bắn trăng.
Mối hoạn từ xưa ấy,
Đánh dẹp thơ còn vang.
Kết hoà xui nó đến,
Khó dứt mối dây ràng.
Sao để tràn cả nước,
Vào ra nghịt cửa vàng.
Trung Nguyên còn có loạn,
Buộc lòng mượn chúng sang.
Nhà vua chỉ trời thệ,
Công chúa ca hộc vàng.
Liền mây đồn đóng dọc,
Trăm dặm mờ tuyết dăng.
Giáo dài chim dứt lối,
Kèn sáng nghe buồn thương.
Nhà nông rất sợ hãi:
Lúa phá, dâu chặt càn.
Nơi nước trong cát trắng,
Vùng cỏ tốt suối hương.
Qua sông chẳng cần thuyền,
Ngàn ngựa thường vượt băng.
Bụi Hồ mờ non Thái,
Tạp chung hãm Lạc Dương.
Hoa Môn nên giữ lại,
Đồng nội xơ xác dần.
Hoa Môn, quân chúa ngạo,
Ăn thịt, tính hay cương.
Trăng Hán lắp tên bắn,
Đến thu ngựa mập cường.
Từ xưa luôn nhiễu hại,
Chuyện chép trong văn chương.
Nên lấy đức thu chúng,
Keo sơn hoài chẳng buông.
Vì sao nhục chí nước,
Cửa khuyết chúng đi thường.
Trong nước có binh loạn,
Lễ dâng, nhịn lót đường.
Hộc vàng, công chúa hát,
Vua thệ trước vầng dương.
Mây tụ về vần vũ,
Tuyết băng trăm dặm trường.
Giáo dài chim gãy cánh,
Khèn thổi lắm bi thương.
Bỡi thế nhà nông sợ,
Gãy dâu, trốc ruộng nương.
Từ Thanh, vị, đại mạc,
Gió mát cỏ đưa hương.
Qua bến chẳng cần sõng,
Con trời thật dở ương.
Thái Hàng rợ nổi bụi,
Dân tạp loạn kinh phường.
Nên giữ Hoa Môn lại,
Đồng bằng sẽ...thảm thương.
Gửi bởi Anh Nguyêt ngày 31/12/2014 19:41
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử ngày 01/01/2015 15:04
Hoa Môn kiêu ngạo, con trời,
Là dân ăn thịt, tính thời ngược ngang.
Trời thu cao, ngựa béo căng,
Lắp tên, trăng Hán, hung hăng bắn hoài.
Từ xưa làm hại dài dài,
Thi nhân ghi chép chẳng ai ưa gì.
Lấy nhân đức xử khó chi,
Sợi dây ràng buộc chẳng khi nào rời.
Tại sao mỹ kế dùng rồi?
Vào ra, cung cấm là nơi hẹn hò.
Trung nguyên, trừ loạn, việc to,
Nên đành nín nhịn để cho chúng vào.
Hộc vàng, công chúa ước ao,
Nhà vua chỉ mặt trời cao mà thề.
Mây trời vần vũ nặng nề,
Cả trăm dặm tuyết tràn trề trắng phau.
Giáo dài, chim hết bay mau,
Tù và eo óc, bắt đầu rạng đông.
Nhà nông sợ hãi vô cùng,
Lúa nghiêng, dâu gẫy khắp vùng còn đâu.
Sa Uyển, Thanh Vị, dòng sâu,
Suối trong, gió nhẹ, cỏ mầu xanh tươi.
Qua sông, thuyền bỏ, lội người,
Con trời ngang ngược, đánh thời hăng say.
Thái Hàng, bụi giặc Hồ bay,
Quê mùa, hỗn tạp, hôm nay vào thành.
Hoa Môn, hãy giữ lại nhanh,
Cánh đồng quê đã vắng tanh lúc này...
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 04/02/2015 10:34
Hoa Môn, lũ trời đánh,
Ăn thịt, tính tàn hung.
Mùa thu, cưỡi ngựa béo,
Bắn trăng, nạp tên cung.
Từ xưa vẫn gây rối,
Nhắc chuyện, thơ đã từng.
Lấy đức đối đãi nó,
Giao hảo đời buộc ràng.
Sao lại chịu xuống nước,
Cho chúng tới cửa vàng.
Nước nhà vì có chuyện,
Đành lòng đem nó sang.
Ca hộc vàng, công chúa,
Thề cùng trời, quân vương.
Đồn quân đóng liền khít,
Trăm dặm phủ tuyết sương.
Giáo dài, chim nghẽn lối,
Khèn buồn, tiếng oang oang.
Nhà nông quá sợ hãi,
Dâu gãy, lúa đổ hàng.
Sa Uyển tới Thanh, Vị,
Gió mát cỏ nức hương.
Con trời cưng lộng quá,
Không thuyền, vẫn quá giang.
Giống mọi dạo phường phố,
Bụi Hồ mờ Thái Hàng.
Hoa Môn được giữ lại,
Hiu hắt chốn đồng hoang.
Gửi bởi Lâm Xuân Hương ngày 23/03/2016 08:03
Hoa Môn bọn con trời kiêu ngạo
Thịt thay cơm, tiết tháo can trường
Trời thu rét, ngựa béo tròn
Lắp tên cung bắn chơi vầng Hán trăng
Từ xưa chúng hung hăng gây hoạn
Thi nhân ta ngán cảnh giết nhau
Nên dùng đức độ làm đầu
Tạo dây ràng buộc, chúng đâu dám càn
Vì sao chúng đến làm nghiêng nước
Ra vào làm u uất kinh đô?
Trung nguyên có loạn nên nhờ
Bọn này giúp sức, làm ngơ cho rồi
Công chúa mơ làm loài hoàng hộc
Chỉ mặt trời vua quyết gả nàng
Quân Hồ dựng trại hàng hàng
Trông như tuyết phủ cả ngàn dặm băng
Giáo dài chống chim không dám vượt
Tiếng kèn Hồ não nuột ban mai
Nông dân chết khiếp chạy dài
Lúa bông gục ngả, dâu đay uá vàng
Quân Hồ đóng trại vùng Sa Uyển
Cỏ hoa nhiều, thanh khiết đào nguyên
Qua sông chúng chẳng cần thuyền
Cả ngàn người ngựa thường xuyên lội hoài
Khi Thái Hàng ngựa Hồ vượt được
Bọn rợ này xúc phạm hoàng cung
Hoa Môn nếu giữ lại cùng
E rằng đất nước tiêu tùng thảm thê.