寄彭州高三十五使君適、虢州岑二十七長史參三十韻
故人何寂寞,
今我獨淒涼。
老去才難盡,
秋來興甚長。
物情尤可見,
辭客未能忘。
海內知名士,
雲端各異方。
高岑殊緩步,
沈鮑得同行。
意愜關飛動,
篇終接混茫。
舉天悲富駱,
近代惜盧王。
似爾官仍貴,
前賢命可傷。
諸侯非棄擲,
半刺已翱翔。
詩好幾時見,
書成無信將。
男兒行處是,
客子鬥身強。
羈旅推賢聖,
沈綿抵咎殃。
三年猶瘧疾,
一鬼不銷亡。
隔日搜脂髓,
增寒抱雪霜。
徒然潛隙地,
有靦屢鮮妝。
何太龍鍾極,
於今出處妨。
無錢居帝裏,
盡室在邊疆。
劉表雖遺恨,
龐公至死藏。
心微傍魚鳥,
肉瘦怯豺狼。
隴草蕭蕭白,
洮雲片片黃。
彭門劍閣外,
虢略鼎湖旁。
荊玉簪頭冷,
巴箋染翰光。
烏麻蒸續曬,
丹橘露應嘗。
豈異神仙宅,
俱兼山水鄉。
竹齋燒藥灶,
花嶼讀書床。
更得清新否,
遙知對屬忙。
舊官寧改漢,
淳俗本歸唐。
濟世宜公等,
安貧亦士常。
蚩尤終戮辱,
胡羯漫倡狂。
會待襖氛靜,
論文暫裹糧。
Ký Bành Châu Cao tam thập ngũ sứ quân Thích, Hào Châu Sầm nhị thập thất trưởng sử Tham tam thập vận
Cố nhân hà tịch mịch,
Kim ngã độc thê lương.
Lão khứ tài nan tận,
Thu lai hứng thậm trường.
Vật tình vưu khả kiến,
Từ khách vị năng vương (vong).
Hải nội tri danh sĩ,
Vân đoan các dị phương.
Cao, Sầm thù hoãn bộ,
, đắc đồng hành.
Ý khiếp quan phi động,
Thiên chung tiếp hỗn mang.
Cử thiên bi , ,
Cận đại tích , .
Tự nhĩ quan nhưng quý,
Tiền hiền mệnh khả thương.
Chư hầu phi khí trịch,
Bán thích dĩ cao tường.
Thi hảo kỷ thì kiến,
Thư thành vô tín tương.
Nam nhi hành xử thị,
Khách tử đấu thân cường.
Ky lữ thôi hiền thánh,
Trầm miên để cữu ương.
Tam niên do ngược tật,
Nhất quỷ bất tiêu vong.
Cách nhật sưu chi tuỷ,
Tăng hàn bão tuyết sương.
Đồ nhiên tiềm khích địa,
Hữu điến lũ tiên trang.
Hà thái long chung cực,
Vu kim xuất xử phương.
Vô tiền cư đế lý,
Tận thất tại biên cương.
tuy di hận,
chí tử tàng.
Tâm vi bàng ngư điểu,
Nhục sấu khiếp sài lang.
thảo tiêu tiêu bạch,
vân phiến phiến hoàng.
môn, ngoại,
lược, bàng.
Kinh, ngọc trâm đầu lãnh,
Ba, tiên nhiễm hàn quang.
Ô ma chưng tục sất,
Đan quất lộ ưng thường.
Khởi dị thần tiên trạch,
Câu kiêm sơn thuỷ hương.
Trúc trai thiêu dược táo,
Hoa dự độc thư sàng.
Cánh đắc thanh tân phủ,
Dao tri đối thuộc mang.
,
.
Tế thế nghi công đẳng,
An bần diệc sĩ thường.
chung lục nhục,
mạn xương cuồng.
Hội đãi tĩnh,
Luận văn tạm khoả lương.
Dịch nghĩa
Bạn xưa sao mà vắng bặt,
Một mình tôi buồn rầu.
Tới già tài khó hết,
Thu về hứng càng cao.
Lòng người càng dễ thấy,
Bạn văn chưa thể quên.
Cả nước biết bậc danh sĩ,
Chân trời mỗi người một nơi.
Hai ông Cao, Sầm thảnh thơi,
Cùng được đi chung với Thẩm, và Bão.
Ý đạt thì khép kín lại không bay nhảy,
Thơ thành là tới chốn lâng lâng.
Cái buồn của Phú và Lạc cao vút tận trời,
Sát với thời nay thấy tiếc cho Lư và Vương.
Giống các ông làm quan vẫn là quý,
Nhưng số phận các bậc hiền đời trước thật đáng thương.
Chư hầu chớ có bỏ đi,
Mới nửa phần chế sứ đã bay cao rồi.
Thơ hay chừng nào thấy,
Thư viết xong chưa có kẻ tin cẩn để gửi.
Kẻ làm trai có thái độ như thế đó,
Kẻ xa nhà phải phấn đấu để thân mạnh lên,
Sống nơi đất khách chính là để trở nên người hiền,
Im lìm lâu là để tránh tai hoạ.
Ba năm còn chứng bệnh sốt rét ngã nước.
Một con quỷ đó chưa có tiêu tan.
Cứ cách ngày là kiểm tra lại tuỷ xương,
Khi trời lạnh lên, phải lo phòng giữ tuyết sương.
Thật là vô ích nấp nơi đất ranh giới,
Cỏ vẻ thẹn thùng khi trang điểm đẹp (lo trị bệnh).
Sao đối với tuổi già lại tới mức quá xá như thế,
Giờ đây ra làm quan hay ở ẩn cũng đều có gặp trở ngại.
Không có tiền để sống nơi kinh đô,
Vách trống sống nơi biên cương.
Tuy rằng Lưu Biểu còn để mối hận lại,
Nhưng Bàng Đức công vẫn ẩn tránh cho tới chết.
Lòng nhỏ nhặt nên gần kề với cá, chim.
Thịt nhăn nheo nên sợ lũ sài lang.
Cỏ vùng Lũng bát ngát trắng xoá,
Mây sông Thao lớp lớp vàng.
Cửa núi Bành ngay bên ngoài Kiếm Các.
Đất xứ Quắc ngay bên Đỉnh Hồ.
Nơi vùng Kinh, trâm ngọc trên đầu thấy lạnh,
Nơi đất Ba, giấy thấm ánh sáng của văn chương.
Mè đen hết sấy lại phơi,
Quất đỏ bày ra trước mắt làm mình muốn nếm.
Há có khác với nhà thần tiên hay sao,
Vốn ở làng có đầy đủ núi sông.
Phòng trúc có bếp sấy thuốc,
Đảo hoa có đặt giường đọc sách.
Có phải là khoan khoái như được cái mới không,
Xa biết hai ông hiện đang rất cấp rấp hoang mang.
Chức chế sứ đặt ra từ triều Hán xưa, thế mà sao lại đổi,
Phong tục đã thuần rồi thì về tay nhà Đường.
Giúp đời rất hợp với các ông,
Chịu cảnh nghèo đó là lẽ thường tình dành cho kẻ sĩ.
Xi Vưu bị đánh chết,
Hồ Yết vẫn còn ngông cuồng lắm.
Chờ dịp lúc không khí chiến tranh lắng xuống,
Bàn chuyện văn chương tạm thay thế cho gói cơm.
寄彭州高三十五使君適、虢州岑二十七長史參三十韻
Ký Bành Châu Cao tam thập ngũ sứ quân Thích, Hào Châu Sầm nhị thập thất trưởng sử Tham tam thập vận
Gửi sứ quân Cao Thích ở Bành Châu, trưởng sử Sầm Tham ở Hào Châu ba mươi vần
故人何寂寞,
Cố nhân hà tịch mịch,
Bạn xưa sao mà vắng bặt,
今我獨淒涼。
Kim ngã độc thê lương.
Một mình tôi buồn rầu.
老去才難盡,
Lão khứ tài nan tận,
Tới già tài khó hết,
秋來興甚長。
Thu lai hứng thậm trường.
Thu về hứng càng cao.
物情尤可見,
Vật tình vưu khả kiến,
Lòng người càng dễ thấy,
辭客未能忘。
Từ khách vị năng vương (vong).
Bạn văn chưa thể quên.
海內知名士,
Hải nội tri danh sĩ,
Cả nước biết bậc danh sĩ,
雲端各異方。
Vân đoan các dị phương.
Chân trời mỗi người một nơi.
高岑殊緩步,
Cao, Sầm thù hoãn bộ,
Hai ông Cao, Sầm thảnh thơi,
沈鮑得同行。
, đắc đồng hành.
Cùng được đi chung với Thẩm, và Bão.
意愜關飛動,
Ý khiếp quan phi động,
Ý đạt thì khép kín lại không bay nhảy,
篇終接混茫。
Thiên chung tiếp hỗn mang.
Thơ thành là tới chốn lâng lâng.
舉天悲富駱,
Cử thiên bi , ,
Cái buồn của Phú và Lạc cao vút tận trời,
近代惜盧王。
Cận đại tích , .
Sát với thời nay thấy tiếc cho Lư và Vương.
似爾官仍貴,
Tự nhĩ quan nhưng quý,
Giống các ông làm quan vẫn là quý,
前賢命可傷。
Tiền hiền mệnh khả thương.
Nhưng số phận các bậc hiền đời trước thật đáng thương.
諸侯非棄擲,
Chư hầu phi khí trịch,
Chư hầu chớ có bỏ đi,
半刺已翱翔。
Bán thích dĩ cao tường.
Mới nửa phần chế sứ đã bay cao rồi.
詩好幾時見,
Thi hảo kỷ thì kiến,
Thơ hay chừng nào thấy,
書成無信將。
Thư thành vô tín tương.
Thư viết xong chưa có kẻ tin cẩn để gửi.
男兒行處是,
Nam nhi hành xử thị,
Kẻ làm trai có thái độ như thế đó,
客子鬥身強。
Khách tử đấu thân cường.
Kẻ xa nhà phải phấn đấu để thân mạnh lên,
羈旅推賢聖,
Ky lữ thôi hiền thánh,
Sống nơi đất khách chính là để trở nên người hiền,
沈綿抵咎殃。
Trầm miên để cữu ương.
Im lìm lâu là để tránh tai hoạ.
三年猶瘧疾,
Tam niên do ngược tật,
Ba năm còn chứng bệnh sốt rét ngã nước.
一鬼不銷亡。
Nhất quỷ bất tiêu vong.
Một con quỷ đó chưa có tiêu tan.
隔日搜脂髓,
Cách nhật sưu chi tuỷ,
Cứ cách ngày là kiểm tra lại tuỷ xương,
增寒抱雪霜。
Tăng hàn bão tuyết sương.
Khi trời lạnh lên, phải lo phòng giữ tuyết sương.
徒然潛隙地,
Đồ nhiên tiềm khích địa,
Thật là vô ích nấp nơi đất ranh giới,
有靦屢鮮妝。
Hữu điến lũ tiên trang.
Cỏ vẻ thẹn thùng khi trang điểm đẹp (lo trị bệnh).
何太龍鍾極,
Hà thái long chung cực,
Sao đối với tuổi già lại tới mức quá xá như thế,
於今出處妨。
Vu kim xuất xử phương.
Giờ đây ra làm quan hay ở ẩn cũng đều có gặp trở ngại.
無錢居帝裏,
Vô tiền cư đế lý,
Không có tiền để sống nơi kinh đô,
盡室在邊疆。
Tận thất tại biên cương.
Vách trống sống nơi biên cương.
劉表雖遺恨,
tuy di hận,
Tuy rằng Lưu Biểu còn để mối hận lại,
龐公至死藏。
chí tử tàng.
Nhưng Bàng Đức công vẫn ẩn tránh cho tới chết.
心微傍魚鳥,
Tâm vi bàng ngư điểu,
Lòng nhỏ nhặt nên gần kề với cá, chim.
肉瘦怯豺狼。
Nhục sấu khiếp sài lang.
Thịt nhăn nheo nên sợ lũ sài lang.
隴草蕭蕭白,
thảo tiêu tiêu bạch,
Cỏ vùng Lũng bát ngát trắng xoá,
洮雲片片黃。
vân phiến phiến hoàng.
Mây sông Thao lớp lớp vàng.
彭門劍閣外,
môn, ngoại,
Cửa núi Bành ngay bên ngoài Kiếm Các.
虢略鼎湖旁。
lược, bàng.
Đất xứ Quắc ngay bên Đỉnh Hồ.
荊玉簪頭冷,
Kinh, ngọc trâm đầu lãnh,
Nơi vùng Kinh, trâm ngọc trên đầu thấy lạnh,
巴箋染翰光。
Ba, tiên nhiễm hàn quang.
Nơi đất Ba, giấy thấm ánh sáng của văn chương.
烏麻蒸續曬,
Ô ma chưng tục sất,
Mè đen hết sấy lại phơi,
丹橘露應嘗。
Đan quất lộ ưng thường.
Quất đỏ bày ra trước mắt làm mình muốn nếm.
豈異神仙宅,
Khởi dị thần tiên trạch,
Há có khác với nhà thần tiên hay sao,
俱兼山水鄉。
Câu kiêm sơn thuỷ hương.
Vốn ở làng có đầy đủ núi sông.
竹齋燒藥灶,
Trúc trai thiêu dược táo,
Phòng trúc có bếp sấy thuốc,
花嶼讀書床。
Hoa dự độc thư sàng.
Đảo hoa có đặt giường đọc sách.
更得清新否,
Cánh đắc thanh tân phủ,
Có phải là khoan khoái như được cái mới không,
遙知對屬忙。
Dao tri đối thuộc mang.
Xa biết hai ông hiện đang rất cấp rấp hoang mang.
舊官寧改漢,
,
Chức chế sứ đặt ra từ triều Hán xưa, thế mà sao lại đổi,
淳俗本歸唐。
.
Phong tục đã thuần rồi thì về tay nhà Đường.
濟世宜公等,
Tế thế nghi công đẳng,
Giúp đời rất hợp với các ông,
安貧亦士常。
An bần diệc sĩ thường.
Chịu cảnh nghèo đó là lẽ thường tình dành cho kẻ sĩ.
蚩尤終戮辱,
chung lục nhục,
Xi Vưu bị đánh chết,
胡羯漫倡狂。
mạn xương cuồng.
Hồ Yết vẫn còn ngông cuồng lắm.
會待襖氛靜,
Hội đãi tĩnh,
Chờ dịp lúc không khí chiến tranh lắng xuống,
論文暫裹糧。
Luận văn tạm khoả lương.
Bàn chuyện văn chương tạm thay thế cho gói cơm.