Chưa có đánh giá nào
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong
Thời kỳ: Thịnh Đường
2 bài trả lời: 2 bản dịch

Đăng bởi tôn tiền tử vào 08/02/2015 18:04

戲贈友其二

元年建巳月,
官有王司直。
馬驚折左臂,
骨折面如墨。
駑駘漫深泥,
何不避雨色。
勸君休歎恨,
未必不為福。

 

Hí tặng hữu kỳ 2

Nguyên niên kiến tí nguyệt,
Quan hữu Vương tư trực.
Mã kinh chiết tả tí,
Cốt chiết diện như mặc.
Nô thai mạn thâm nê,
Hà bất tị vũ sắc.
Khuyến quân hưu thán hận,
Vị tất bất vi phúc.

 

Dịch nghĩa

Năm đầu, vào tháng tư,
Có quan tư trực họ Vương.
Ngựa hoảng sợ lồng lên làm gãy tay trái,
Xương gãy mặt tím bầm như mực.
Bọn ngựa ưa bùn sâu,
Nào biết tránh chỗ có nước mưa.
Khuyên anh chớ còn giận dữ nữa,
Chưa chắc đó là điều không may đâu.


(Năm 762)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Năm đầu vào tháng tư,
Có quan Vương tư trực.
Ngựa lồng què một tay,
Xương gãy, tím bầm mặt.
Ngựa kia ham lội bùn,
Sao tránh nổi nước ướt.
Khuyên anh chớ thở than.
Sui chăng? Cũng chưa chắc.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Năm đầu tiên nhằm vào tháng tị
Tư trực là quan vị chàng Vương
Gãy tay vì ngựa sợ lồng
Dập xương mặt mũi tím bầm đen thui
Ngựa hèn thích thân vùi bùn nước
Chúng đâu cần tránh trước cơn mưa
Khuyên ông bớt giận là vừa
Không may chưa hẳn, tích xưa kể rồi.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời