15.00
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Thất ngôn cổ phong
Thời kỳ: Thịnh Đường
2 bài trả lời: 2 bản dịch

Đăng bởi tôn tiền tử vào 14/02/2015 12:52

憶昔其二

憶昔開元全盛日,
小邑猶藏萬家室。
稻米流脂粟米白,
公私倉廩俱豐實。
九州道路無豺虎,
遠行不勞吉日出。
齊紈魯縞車班班,
男耕女桑不相失。
宮中聖人奏雲門,
天下朋友皆膠漆。
百餘年間未災變,
叔孫禮樂蕭何律。
豈聞一絹直萬錢,
有田種穀今流血。
洛陽宮殿燒焚盡,
宗廟新除狐兔穴。
傷心不忍問耆舊,
復恐初從亂離說。
小臣魯鈍無所能,
朝廷記識蒙祿秩。
周宣中興望我皇,
灑血江漢身衰疾。

 

Ức tích kỳ 2

Ức tích Khai Nguyên toàn thịnh nhật,
Tiểu ấp do tàng vạn gia thất.
Đạo mễ lưu chỉ, túc mễ bạch,
Công tư thương lẫm câu phong thật.
Cửu châu đạo lộ vô sài hổ,
Viễn hành bất lao cát nhật xuất.
Tề hoàn, Lỗ cao xa ban ban,
Nam canh nữ tang bất tương thất.
Cung trung thánh nhân tấu vân môn,
Thiên hạ bằng hữu giai giao tất.
Bách dư niên gian vị tai biến,
Thúc Tôn lễ nhạc, Tiêu Hà luật.
Khởi văn nhất quyên trị vạn tiền.
Hữu điền chung canh kim lưu huyết,
Lạc Dương cung điện thiêu phần tận,
Tông miếu tân trừ hồ thố huyệt.
Thương tâm bất nhẫn vấn kỳ cựu,
Phục khủng sơ tòng loạn ly thuyết.
Tiểu thần lỗ độn vô sở năng,
Triều đình ký thức mông lộc trật.
Chu tuyên trung hưng vọng ngã hoàng,
Sái huyết Giang Hán thân suy tật.

 

Dịch nghĩa

Nhớ xưa đời Khai Nguyên là lúc toàn thịnh,
Ấp nhỏ nhất cũng có đến cả vạn hộ sinh sống.
Gạo nếp tròn vo, gạo tẻ trắng bóc,
Kho công lẫn kho tư hàng hoá chứa đầy ăm ắp.
Đường đi trong chín châu không có thú dữ chặn đường,
Vào ngày lành đi xa không hề thấy mệt.
Lụa vùng Tề, tơ vùng Lỗ xe chở đầy,
Trai cày ruộng, gái ươm tơ không hề trễ nải.
Nơi kinh đô, vua đối xử nhân từ,
Ngoài dân gian dân có tình liên kết.
Hơn trăm năm nay rồi không hề có tai biến nào,
Được thế là nhờ phép tế lễ do Thúc Tôn Thông đặt ra, luật lệ trị an do Tiêu Hà quy định.
Mà nay nghe giá một tấm đến vạn đồng,
Đồng ruộng trước kia được trồng trọt nay máu đổ chan hoà.
Cung điện nơi Lạc Dương nay bị thiêu đốt gần hết,
Nơi miếu thờ các vị vua trước thì cáo thỏ bới làm chỗ ở cho chúng.
Đau lòng không dám hỏi những người xưa,
Sợ lại nói đến việc loạn ly.
Tôi là quan nhỏ, đần độn không thể làm gì được,
Trong triều biết rõ bổng lộc tôi rất nhỏ.
Tôi mong đợi nhà vua gây dựng lại nghiệp cũ,
Thân tàn này xin đổ máu vùng Giang Hán.


(Năm 764)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Nhớ thời Khai Nguyên lúc thịnh đạt,
Ấp nhỏ có vạn nhà liền khít.
Gạo nếp tròn vo, tẻ trắng tinh,
Đầy kho công, tư, hàng hoá chất.
Khắp nước sói hổ không chặn đường,
Ngày lành đi xa không thấy mệt.
Lụa Tề, tơ Lỗ xe chở đầy,
Chăm chỉ nam cày với nữ dệt.
Trong triều, vua chúa ca nhân từ,
Ngoài nội, bạn bè lòng khăng khít.
Tai biến chẳng có, hơn trăm năm,
Thúc Tôn: lễ nhạc, Tiêu Hà: luật.
Giờ nghe mỗi tấm giá vạn đồng,
Ruộng nay máu đổ, không trồng trọt.
Cung điện Lạc Dương cháy tiêu tan,
Tông miếu, cáo thỏ moi làm huyệt.
Đau lòng chẳng dám hỏi người xưa,
Lại sợ nói đến cảnh chém giết.
Quan nhỏ ngu đần chẳng biết gì,
Triều đình ghi nhớ cho thăng trật.
Vận mới đã về ta ngóng vua,
Giang Hán giỏ máu, thân tàng tật.

tửu tận tình do tại
15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Nhớ xưa thời Khai Nguyên toàn thịnh
Ấp con con vạn đỉnh nóc gia
Luá mùa gạo nếp đầy nhà
Kho công chật ních, kho tư căng phồng
Đường trong châu tuyệt không sói cọp
Đi chẳng cần ngày tốt mới đi
Luạ là xe chở Lỗ Tề
Trai năng cày ruộng, dệt tơ gái làm
Trong cung nhạc Vân Môn hoà tấu
Dưới gầm trời người kết keo sơn
Trăm năm binh biến không cơn
Vẫn dùng phép của Thúc Tôn, Tiêu Hà
Đâu có nghe lụa thô tiền vạn
Ruộng trồng cây cốc đẫm máu tươi
Lạc Dương cung điện cháy rồi
Tiên hoàng tông miếu chồn moi làm nhà
Đau lòng mà cánh già không hỏi
Sợ lại bàn về nỗi loạn ly
Bầy tôi cấp nhỏ ngu si
Được triều đình biết ban cho phẩm hàm
Hi vọng vua trung hưng triều chính
Đổ máu vì Giang Hán cũng cam.

15.00
Trả lời