大曆二年九月三十日

為客無時了,
悲秋向多終。
瘴餘夔子國,
霜薄楚王宮。
草敵虛嵐翠,
花禁冷葉紅。
年年小搖落,
不與故園同。

 

Đại Lịch nhị niên cửu nguyệt tam thập nhật

Vi khách vô thì liễu,
Bi thu hướng đa chung.
Chướng dư Quỳ tử quốc,
Sương bạc Sở vương cung.
Thảo địch hư lam thuý,
Hoa cấm lãnh diệp hồng.
Niên niên tiểu dao lạc,
Bất dữ cố viên đồng.

 

Dịch nghĩa

Đi mãi trên đất khách,
Những ngày nhàn nhã tiếc thu đã hết.
Từng ở Quỳ Châu nhiều chướng khí,
Đất Sở lắm sương mỏng.
Cỏ cố sống trong hơi núi,
Hoa khó nở trong khí lạnh làm đỏ lá.
Năm lại năm cây cỏ (ở những nơi đang qua) không xanh tốt,
Được bằng như ở vườn cũ.


(Năm 767)

Năm Đại Lịch thứ hai là năm 767 đời vua Đường Đại Tông. Năm 762, thảo đường ngoài Thành Đô bị gió thổi lật, thêm quan quyền tàn sát lẫn nhau, Đỗ Phủ đưa gia quyến xuống thuyền lánh nạn về phía đông. Thuyền qua nhiều nơi, mỗi nơi ở ít lâu rồi lại đi. Khi làm bài này, ông lênh đênh đất khách đã 5 năm. Sau đó ông còn tiếp tục lênh đênh đất tới khi mất trên thuyền năm 770.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Thuyền đi mãi qua nhiều đất khách
Thơ tiếc thu chấm dứt từ lâu
Quá nhiều chướng khí Quỳ châu
Sương mờ đất Sở gây sầu nhớ quê
Cỏ lây lất nặng nề khí núi
Hoa không ra vì lá lạnh vàng
Năm năm cây cỏ bên đàng
Thấy không tươi tốt được bằng vườn xưa

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Anh Nguyên

Làm thân khách mãi không ngừng,
Thu đau thương đến lúc cùng chưa thôi.
Quỳ Châu hơi độc bời bời,
Cung vua Sở chút sương rơi lúc này.
Cỏ xanh, hơi núi phủ đầy,
Hoa, bao lá lạnh đang vây đỏ hồng.
Năm năm còn vẫn bềnh bồng,
Thân già chẳng được sống cùng quê xưa!...

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Thân khách không lúc ngưng,
Thu buồn nhiều lần chung.
Quỳ Châu khí độc lắm,
Đất Sở sương mông lung.
Hơi núi chặn cỏ tốt,
Lá lạnh ngăn hoa hồng.
Năm năm còn lận đận,
Quê cũ chẳng về cùng.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời