Thời trước ở Tây kinh,
Hồ tới đầy cung đỏ.
Nửa đêm đốt miếu thờ,
Sông Vân hán rực tỏ.
Ngàn dặm ngói vỡ bay,
Lưng trời tung màn cửa.
Đau lòng thấy bàn thờ,
Đều thành tro theo gió.
Chiều hôm thiết kỵ dàn,
Nắng mai, màn gấm mở.
Để mừng đã thành công,
Bọn phản trổ tài phá.
Giết đến cả phi tần,
Mọi thứ là đồ bỏ.
Vua nép nơi nhà vàng,
Nhà trống sâu khoét lỗ.
Chẳng biết hai chỗ vua,
Trăm năm già nức nở.
Xe vua đã trở về,
Cột kèo lại lồ lộ
Già cả lệ đầm đìa,
Ông từ trồng cây cọ.
Huy hoàng có kém xưa,
Uy vua được củng cố.
Xuân trước tế đàn giao,
Đích thân vua đứng chủ.
Gần cạnh là quan to,
Các ông kèm theo họ.
Lên thềm dâng tờ văn,
Mũ cao, chuông vàng đổ.
Phụ tế dụt dè lên,
Rồng ướt đầy công sở.
Chín bệ, năm sắc mây,
Con hiếu duy thiên tử.
Gương soi đổi phấn son,
Chỉ mày ngài hớn hở.
Yết Hồ trước kia dè,
Khuyển Nhung nay lại vớ.
Dĩa cúng bày thịt tanh,
Cung tên ngay phòng ở.
Từ cực tây, mong sao
Tới Sơn Đông, mệnh rõ.
Cửa vua rầm rầm vào,
Quan Trung dân đông đủ.
Phải, trái tướng nhận ra,
Đầu đuôi dân biết rõ.
Một sớm nhận lỗi mình,
Khắp nơi thu một chỗ.
Cày bừa thay dáo gươm,
Vừa lòng người lính thú.
Quan nhàn theo lối xưa,
Việc nông đều năng nổ.
Vua tôi tiết kiệm vừa,
Khắp nơi mừng vui lộ.
Trung hưng giống thuở đầu
Theo Thái Tông tiếp thụ.
Mạnh dạn dâng lời can,
Hoà khí ngày càng rộ.
Ao vua, anh đào cành,
Tơ vàng, óng ánh giỏ.
Lăng tẩm vững ngàn năm,
Sẽ mãi mãi còn đó.
Không cháy lại, kinh đô
Kinh, Vị hết trăn trở.
Quay về với bách tùng,
Lênh đênh già hết khổ.

tửu tận tình do tại