前苦寒行其一

漢時長安雪一丈,
牛馬毛寒縮如蝟。
楚江巫峽冰入懷,
虎豹哀號又堪記。
秦城老翁荊揚客,
慣習炎蒸歲絺綌。
玄冥祝融氣或交,
手持白羽未敢釋。

 

Tiền khổ hàn hành kỳ 1

Hán thì Trường An tuyết nhất trượng,
Ngưu mã mao hàn tự như vị.
Sở giang Vu Giáp băng nhập hoài,
Hổ báo ai hào hữu kham ký.
Tần thành lão ông kinh dương khách,
Quán tập viêm chưng tuế hy khích.
Huyền minh chúc dung khí hoặc giao,
Thủ trì bạch vũ vị cảm thích.

 

Dịch nghĩa

Thời Hán nơi Trường An tuyết cao đển cả trượng,
Lông trâu ngựa nước đông cứng tua tủa trông như lông nhím.
Sông vùng Sở, nơi Vu Giáp băng giá thấm người,
Hổ báo kêu thảm còn đáng ghi nhớ hơn.
Ông già nơi thành đất Tần là khách vùng Kinh Dương,
Quen với khí oi bức nên quanh năm áo thô gai.
Thần lửa mờ tối khí như tuôn trào,
Tay nắm mũi tên chưa giám buông ra.


(Năm 767)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Thời Hán Trường An tuyết cả thước,
Trâu, ngựa như nhím, lông tua tủa.
Sông Sở Vu Giáp lạnh thấm người,
Hổ báo kêu thảm càng đáng nhớ.
Thành Tần ông lão ở Kinh Dương,
Quanh năm áo thô, dạn viêm chưng.
Thần lửa mờ mờ muốn nhả khí,
Tên sẵn trong tay chưa dám buông.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Thời Hán Trường An tuyết cả trượng
Trâu ngựa lông lạnh tựa nhím lông
Giá băng sông Sở nhập lòng
Hùm beo kêu thảm lại càng đáng ghi
Lão đất Tần thì Kinh Dương khách
Áo gai thô quen bức quanh năm
Lửa thần như muốn trào tuôn
Tay ghìm tên trắng chưa buông được nào.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời