Trần Đăng Khoa làm bài thơ này từ năm 1998 mà tôi cứ ngỡ như thi sĩ nổi tiếng này vừa mới viết xong. Tôi hình dung ra anh đang đứng trên một đỉnh núi nào đó của vùng Cực Bắc Tổ quốc thân yêu, trong màu áo lính biên phòng vừa nheo nheo mắt tủm tỉm cười vừa đọc thơ:
Ta ngự giữa đỉnh trời / Canh một vùng biên ải / Cho làn sương mong manh / Hoá trường thành vững chãi.

Nhân vật trữ tình đã hiện ra ngay từ đầu, rất đàng hoàng, đĩnh đạc: anh lính biên phòng. Và, cũng cần phải khẳng định ngay rằng những người lính mang quân hàm màu lá cây ấy rất trẻ. Trẻ thì mới xưng danh một cách phong độ ngạo nghễ như thế ấy. Ta ngự giữa đỉnh trời. Không phải tôi mà ta; ta có thể là một nhưng cũng có thể là nhiều. Một chiến sĩ hay một đội ngũ, đều đúng cả. Chững chạc. Đàng hoàng. Cái chững chạc đàng hoàng của người biết rõ vị thế và phận sự của mình. Dường như có cả sự ngang tàng hóm hỉnh trong đó. Bởi nó là ngự (cao sang, tự hào) chứ không phải là đứng, đi, ngồi thông thường. Chất lính trẻ đã tràn vào thơ, ùa vào câu chữ một cách hồn nhiên và khéo léo. Chả trách bài thơ trẻ lâu thế, hơn thập kỷ rồi mà nó vẫn roi rói tuổi hai mươi.

Trên đỉnh trời vòi vọi cheo leo ấy, cảnh vật thật nên thơ, thiên nhiên gắn bó bạn bầu với con người, lãng đãng tíu tít bên nhau:
Lán buộc vào hoàng hôn/ Ráng vàng cùng đến ở/ Bao nhiêu là núi non/ Ríu rít ngoài cửa sổ

Cái thực vào cái ảo đã hoà trộn vào nhau, đất trời mênh mông không còn xa xôi nữa mà đó chính là một phần cuộc sống, nói đúng hơn là một phần tâm hồn của chiến sỹ ta. Chính cách thể hiện này gợi ra nhiều liên tưởng đẹp về đất nước, vùng biên, người lính với chiều sâu lung linh của nó.

Tuy nhiên, nếu theo cái đà này cuộc sống vô cùng gian khổ và thiệt thòi của người lính trấn giữ biên ải sẽ bị thi vị hoá. Trần Đăng Khoa biết dừng lại ở đó để rẽ qua một lối khác, tiếp cận đúng và gần hơn với “tình cảnh” của bao người lính biên phòng
Những mùa đi thăm thẳm/ Trong mung lung chiều tà/ Có bao chàng trai trẻ/ Cứ lặng thinh mà già.

Hay! Nào có nói gì cụ thể đâu về gian khó thiệt thòi của người lính mà sao những điều đó cứ lặng lẽ thấm vào ta. Ai đã từng bám trụ nơi rừng xanh núi đỏ, góc bể chân trời đã từng biền biệt xa quê hương, xa gia đình mới thấu hết sự thăm thẳm dằng dặc của thời gian, cái mung lung xao xác của không gian. Trong cái thời gian, không gian ấy là những chàng lính trẻ của ta Cứ lặng thinh mà già. Già đến mức lúc nào chẳng hay, lặng lẽ già không mấy người biết rõ. Thủ pháp đối nhau được sử dụng ở đây (các chàng trai vui nhộn trẻ trung đối với sự lặng lẽ âm thầm già đi của người lính). Thử hỏi, trong hoàn cảnh đất nước hoà bình có sự hy sinh nào lớn hơn thế.

Nói đến tuổi trẻ không thể không nói đến tình yêu. Tình yêu đôi lứa trong hoàn cảnh này vẫn là cái gì đó còn xa xôi với người lính. Từ một đúp quay cận cảnh cái gian khổ vất vả của người lính hiện lên rõ hơn Áo lên màu mốc trắng/ Tóc đầm đìa sương bay nên chi Lời yêu không muốn ngỏ/ E lẫn vào gió mây. Nếu nói có nỗi buồn nhè nhẹ giấu vào trong đó cũng chẳng sao. Bởi, bằng tình yêu và trách đối với Tổ quốc họ đã vượt qua gian truân để bảo vệ lãnh thổ, họ chính là một phần của bức trường thành vững chãi của non sông Việt nam.

Khổ kết là sự kết hợp hiệu quả cao giữa lãng mạn và hiện thực, là cách gói – mở bài thơ một cách tài hoa bay bổng:
Bỗng ngời ngời chóp núi/ Em xoè ô thăm ta?/ Bàng hoàng xô toang cửa/ Hoá ra vầng trăng xa…

Không gian chẳng được rộng mở như ban ngày nhưng sự chật hẹp ấy chả ngăn được sự tưởng tượng đẹp đẽ thơ mộng của người lính (cô gái xoè ô tới thăm mình = ước mong tình yêu). Dẫu phải bàng hoàng trước thực tế không như mình nghĩ nhưng tâm hồn người lính vẫn trải rộng theo ánh trăng ngàn. Vầng trăng xa toả sáng núi non bờ cõi cũng là hiện hữu của khát vọng yêu thương trong lòng người lính biên cương.

Lời bình của Nguyễn Hữu Quý. Báo Văn nghệ số 35 + 36 (ra ngày 29/8 và 5/9/2009).