Nhị nguyệt thập cửu nhị thập liên nhật quan quân dữ tha giao chiến

Hà Bắc thuỷ thang thang,
Đông phong tảo chiến trường.
Tiên thanh hàn tặc lỗ,
Sát khí bạc khung thương.
Hận bất thừa kì hậu,
Thuỷ vận mạc khả đương?
Xuất sư kinh phất tái,
Lưỡng thí diệc sai cường.

 

Dịch nghĩa

Bên bờ Bắc, nước sông chảy cuồn cuộn
Trận gió đông, quét sạch bụi sa trường
Thanh thế quân ta làm bọn giặc run sợ,
Sát khí bừng bừng, mù mịt trời xanh.
Giận nỗi chưa biết chặn phía sau quân địch,
Ai bảo chúng mạnh không thể đối đầu?
Mới một năm ra quân,
Hai lần đọ sức, đều thấy cứng cỏi.


Đánh thắng quân Pháp ở Gia Lâm ngày 19-20 tháng 2 âm lịch (27-28 tháng 3 năm 1883), tác giả vui mừng làm bài thơ này.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của (Không rõ)

Bên bờ Bắc nước sông cuồn cuộn
Trận gió đông, bụi cuốn sa trường
Tiếng vang lũ giặc kinh hoàng,
Ngút trời sát khí đằng đằng bốc cao.
Giận chẳng được lao vào chặn hậu.
Lũ giặc kia ai bảo khôn ngăn?
Một năm vừa mới ra quân,
Hai lần đọ sức hai lần giỏi giang.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Bên bờ cuồn cuộn bắc dòng sông,
Sạch bụi sa trường trận gió đông,
Thanh thế quân ta giặc hoảng sợ,
Bừng bừng sát khí, mịt trời hồng.
Giận chưa chặn được sau quân địch,
Ai bảo chúng cường thắng khó mong?
Chống giặc ra quân năm một lượt,
Hai lần đọ sức cứng trong lòng.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời