34.33
Thể thơ: Lục bát
Thời kỳ: Nguyễn
1 người thích

Đăng bởi Vanachi vào 30/06/2005 11:13, đã sửa 4 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 19/10/2005 10:39

Chốn hoa nguyệt sa cơ, Bình Khang ôm hận!
Tính phong lưu quen thói, duyên đẹp mưu se.
(Câu 1275-1366)


1275. Khách du bỗng có một người
Kỳ Tầm họ Thúc, cũng nòi thư hương
Vốn người huyện Tích, châu Thường
Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Chuy
Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi
1280. Thiếp hồng tìm đến hương khuê gởi vào
Trưởng tô giáp mặt hoa đào
Vẻ nào chẳng mặn, nét nào chẳng ưa?
Hải đường mơn mởn cành tơ
Ngày xuân càng gió, càng mưa càng nồng!
1285. Nguyệt hoa, hoa nguyệt não nùng
Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng?
Lạ gì thanh khí lẽ hằng
Một dây một buộc, ai giằng cho ra?
Sớm đào, tối mận lân la
1290. Trước còn trăng gió, sau ra đá vàng
Dịp đâu may mắn lạ đường!
Lại vừa gặp khoảng xuân đường lại quê
Sinh càng một tỉnh mười mê
Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân
1295. Khi gió gác, khi trăng sân
Bầu tiên chuốc rượu, câu thần nối thơ
Khi hương sớm, khi trà trưa
Bàn vây điểm nước, đường tơ hoạ đào
Miệt mài trong cuộc truy hoan
1300. Càng quen thuộc nết, càng dan díu tình
Lạ cho cái sóng khuynh thành
Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi
Thúc Sinh quen thói bốc rời
Trăm nghìn đổ một trận cười như không!
1305. Mụ càng tô lục, chuốt hồng
Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê

Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông
Buồng the phải buổi thong dong
1310. Thang lan, rủ bức trướng hồng tẩm hoa
Rõ màu trong ngọc trắng ngà
Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên
Sinh càng tỏ nết càng khen
Ngụ tình tay thảo một thiên luật Đường
1315. Nàng rằng: Vâng biết lòng chàng
Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu
Hay hèn lẽ cũng nối điêu
Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang
Lòng còn gửi áng mây vàng
1320. Hoạ vần, xin hãy chịu chàng hôm nay.
Rằng: Sao nói lạ lùng thay!
Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra?
Nàng càng ủ dột thu ba
Đoạn trường lúc ấy dở mà buồn tênh:
1325. Thiếp như hoa đã lìa cành
Chàng như con bướm lượn vành mà chơi
Chúa xuân đành đã có nơi
Ngắn ngày thôi chớ dài lời mà chi!
Sinh rằng: Từ thuở tương tri
1330. Tấm riêng, riêng những nặng vì nước non
Trăm năm tính cuộc vuông tròn
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.

Nàng rằng: Muôn đội ơn lòng
Chút e bên thú, bên tòng dễ đâu
1335. Bình Khang nấn ná bấy lâu
Yêu hoa, yêu được một màu điểm trang
Rồi ra lở phấn phai hương
Lòng thêm giữ được thường thường mãi chăng?
Vả trong thềm quế cung trăng
1340. Chủ trương đã có chị Hằng ở trong
Bấy lâu khăng khít dải đồng
Thêm người, người cũng chia lòng riêng tây
Vẻ chi chút phận bèo mây
Làm cho bể ái, khi đầy khi vơi
1345. Trăm điều ngang ngửa vì tôi
Thân sau ai chịu tội trời ấy cho?
Như chàng có vững tay co
Mười phân cũng đắp điếm cho một vài
Thế trong dầu lớn hơn ngoài
1350. Trước hàm sư tử gửi người đằng la
Cúi đầu luồn xuống mái nhà
Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng
Ở trên còn có nhà thông
Lòng trên trông xuống biết lòng có thương?
1355. Xá chi liễu ngõ hoa tường
Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh!
Lại càng dơ dáng dại hình
Đành thân phận thiếp, nghĩ danh giá chàng
Thương sao cho vẹn thì thương
1360. Tính sao cho vẹn mọi đường thì vâng.
Sinh rằng: Hay nói đè chừng
Lòng đây, lòng đấy, chưa từng hay sao?
Đường xa chớ ngại Ngô Lào
Trăm điều hãy cứ trông vào một ta
1365. Đã gần chi có đường xa
Đá vàng đã quyết, phong ba cũng liều.