Chưa có đánh giá nào
Thể thơ: Lục bát
Thời kỳ: Nguyễn

Đăng bởi Vanachi vào 11/11/2005 17:37

Ngư rằng: Kinh lạc nhiều đàng,
Người đau nhiều chứng, biết toan lẽ nào?
Dẫn rằng: Chớ hỏi thầy cao,
bệnh nào thuốc nấy đem vào đường kinh.
315. Tiều rằng: Xin hỏi tiên sinh,
lệ trong năm tạng, ghi hình trạng sao?
Dẫn rằng: Tổ có lời rao:
Tạng can thuộc mộc, cây rào mùa xuân.
Sắc xanh, con mắt là chừng,
320. Hoa ra giáp móng, dày gân buộc lèo.
Giấu hồn, đựng máu, tiếng kêu,
Vị toan, nước mắt, mạch nêu chữ Huyền.
Quyết âm kinh túc ấy truyền,
Hợp cùng phủ đảm, ngôi liền ngoài trong.
325. Tạng tâm thuộc hoả, mạch Hồng,
Mùa hè, sắc đỏ, chừng trong lưỡi này.
Giấu thần, nuôi máu, ở đây,
Đắng mùi, tiếng nói, nước vầy buồn hôi.
Thiếu âm kinh thủ phải rồi,
330. Hợp cùng ngoại phủ, rằng ngôi tiểu trường.
Tạng tỳ thuộc thổ sắc vàng,
Vượng theo tứ quý, đều tàng ý vui.
Miệng chừng, nước dãi, ngọt mùi,
Tiếng ca, mạch Hoãn, hay nuôi thịt hình.
335. Thái âm kinh túc đã đành,
Hợp cùng phủ vị, ngôi giành trung châu.
Tạng phế thuộc kim, mạch Phù,
Vị cay, sắc trắng, mùa thu, phách ròng.
Giấu hơi, nuôi khắp da, lông,
340. Mùi chừng, tiếng khóc, nước trong mũi thường.
Thái âm kinh thủ cho tường,
Hợp cùng ngoại phủ đại trường ấy thông.
Tạng thận thuộc thuỷ, mùa đông,
Sắc đen vị mặn, chi dùng nuôi xương,
345. Tiếng rên, nước nhỏ hôi ươn,
Hai tai chừng đó, giữ phương mạch Trầm.
Phần về kinh Túc Thiếu âm,
Hợp bàng quang phủ, gìn cầm hoá nguyên.
Tiều rằng: Nam tạng đã biên,
350. Kìa như sáu phủ, xin liền nói ra.
Dẫn rằng: Cái mật người ta,
Tượng theo xuân mộc, kinh là thiếu dương.
Đảm ngoài làm phủ cho can,
Tóm vào muôn mối, việc toan lo lường.
355. Mấy chiều ruột nhỏ tiểu trường,
Tượng theo hạ hoả, thái dương kinh cầm.
Ở ngoài làm phủ cho tâm,
Nước trôi đem xuống đặng dầm nguồn sinh.
Vị là kinh Túc Dương minh,
360. Đựng theo đất chứa, việc mình uống ăn,
Bao nhiêu nước, xác chứa ngăn,
Phát ra các chỗ, chịu bằng quan ty.
Ở ngoài làm phủ cho tỳ,
Cái bao tử ấy thật ghi công dày.
365. Đại trường ruột lớn liền đây,
Dương minh kinh thủ, tượng vầy thu câm (kim).
Ngôi theo nhờ phế hơi cầm,
Vật ăn bã xác xuống hầm phẩn ra,
Bàng quang thật bọng đái ta,
370. Tượng theo đông thuỷ, kinh là thái dương.
Ngôi theo ngoài chốn thận hương,
Hoá hơi nước xuống, làm đường niệu tân.
Tam tiêu phủ ấy ba tầng,
Kiêm trên, giữa, dưới, gọi rằng tam tiêu.
375. Trên thâu ăn uống, nạp nhiều,
Giữa chia trong đục, dưới điều gạn ra.
Làm đường nước xác trải qua,
Nhờ ba hơi ấy tiêu hoà máu, hơi.
Trước sau bủa khắp ba hơi,
380. Thiếu dương kinh thủ thật nơi dinh người.
Tiều rằng: Kinh lạc mười hai,
Tạng phủ mười một biết hài thế sao?
Dẫn rằng: Trước có lời rao:
Quyết âm kinh thủ, tâm bào lạc nêu.
385. Tâm bào cùng phủ tam tiêu,
Trong ngoài hai ấy chia đều âm, dương.
Muốn làm thầy đặng chữ “lương”,
Bệnh trong tạng phủ phải lường thực hư.
Rồi đây hỏi lại Nhân Sư,
390. Xin phân chứng thực, chứng hư cho rành.
Ngư rằng: Kìa bến Ngũ Hành,
Chia ra nẻo khắc, nẻo sinh làm gì?
Dẫn rằng: Trên, dưới hai nghi,
Có năm hành ấy, hoa ky (cơ) xây vần.
395. Mộc, kim, thuỷ, hoả, thổ phân,
Sinh: phần ấy tốt, khắc: phần ấy hư.
Muốn cho rõ lẽ nên hư,
Coi lời sinh khắc tổ sư ca rằng:

Ngũ hành tương sinh ca
(Bài ca về ngũ hành tương sinh)
Dịch nghĩa:
Mộc sinh hoả chừ, hoả sinh thổ,
Thổ sinh kim chừ, kim sinh thuỷ,
Thuỷ sinh mộc chừ, năm mối sinh,
Trong khoảng trời đất đều tốt lành.

Ngũ hành tương khắc ca
(bài ca về ngũ hành tương khắc)
Dịch nghĩa:
Mộc khắc thổ chừ, thổ khắc thuỷ,
Thuỷ khắc hoả chừ, hoả khắc kim,
Kim khắc mộc chừ, năm mối khắc,
Trong khoảng trời đất thảy tai ương.