同諸公登慈恩寺塔

高標跨蒼天,
烈風無時休。
自非曠士懷,
登茲翻百憂。
方知象教力,
足可追冥搜。
仰穿龍蛇窟,
始出枝撐幽。
七星在北戶,
河漢聲西流。
羲和鞭白日,
少昊行清秋。
秦山忽破碎,
涇渭不可求。
俯視但一氣,
焉能辨皇州。
回首叫虞舜,
蒼梧雲正愁。
惜哉瑤池飲,
日宴崑崙丘。
黃鵠去不息,
哀鳴何所投。
君看隨陽雁,
各有稻粱謀。

 

Đồng chư công “Đăng Từ Ân tự tháp”

Cao tiêu khoá thương thiên,
Liệt phong vô thì hưu.
Tự phi khoáng sĩ hoài,
Đăng tư phiên bách ưu.
Phương tri tượng giáo lực,
Túc khả truy minh sưu.
Ngưỡng xuyên long xà quật,
Thuỷ xuất chi sanh u.
Thất tinh tại bắc hộ,
Hà Hán thanh tây lưu.
Hy Hoà tiên bạch nhật,
Thiếu Hạo hành thanh thu.
Tần sơn hốt phá toái,
Kinh, Vị bất khả cầu.
Phủ thị đãn nhất khí,
Yên năng biện Hoàng Châu.
Hồi thủ khiếu Ngu Thuấn,
Thương Ngô vân chính sầu.
Tích tai Dao Trì ẩm,
Nhật yến Côn Lôn khâu.
Hoàng hộc khứ bất tức,
Ai minh hà sở đầu.
Quân khán: tuỳ dương nhạn,
Các hữu đạo lương mưu.


Bài này được viết năm 752, khi Đỗ Phủ cùng Cao Thích, Sầm Tham, Tiết Cứ, Trừ Quang Hy lên tháp của chùa Từ Ân ở đông nam Trường An.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (5 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Hoàng Trung Thông

Cột cao vút trời xanh
Gió mạnh không hề ngơi
Mình đâu lòng siêu thế
Lên đây lo rối bời
Mới hay sức tượng giáo
Đủ mò sâu lòng người
Ngửa luồn hang rồng rắn
Mới ra cột chống ngoài
Thất tinh cửa bắc sáng
Ngân Hà phía tây xuôi
Thiếu Hiệu làm thu tiết
Hy Hoà đánh mặt trời
Non Tần vào bỗng đổ nát
Kinh, Vị khó rạch ròi
Cúi nhìn chỉ mù mịt
Hoàng Châu đâu là nơi
Quay đầu gọi Ngu Thuấn
Thương Ngô mây sầu trôi
Tiếc Dao Trì đang tiệc
Côn Lôn nắng tắt rồi
Diệc vàng đi chẳng nghỉ
Về đâu, kêu bi ai?
Kìa: bầy nhạn theo đóm
Chỉ cốt ăn tàn thôi


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Khi bạn so găng với cuộc đời, cuộc đời luôn luôn thắng (Andrew Matthews)
15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của mailang

Nêu vút cao lên trời,
Gío lồng chẳng lúc thôi.
Tâm tình không khoáng đạt,
Đến cũng lắm bồi hồi.
Pháp lực đạo giờ biết,
U minh được thấu soi.
Hang rồng rắn ngước thấy,
Nhành rậm bước ra rồi.
Cửa bắc treo sao Đẩu,
Tây nghe sông Hán trôi.
Hy Hòa chở mặt nhật,
Thiếu Hạo, thu trong chơi.
Bỗng núi Tần tan vỡ,
Vị Kinh chẳng rạch ròi.
Hoàng Châu đâu chẳng biết,
Cúi thấy mịt mờ hơi.
Ngu Thuấn, ngoảnh đầu gọi,
Thương Ngô mây thảm trời.
Dao Trì tiếc tiệc rượu,
Sớm tối Côn Lôn ngồi.
Hoàng Hộc đi không nghỉ,
Kêu buồn, chẳng biết nơi.
Vầng dương, nhạn đảo lượn,
Mưu kiếm miếng ăn thôi.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nhượng Tống

Ngọn cao ngất khung xanh
Gió to quanh bốn mùa
Ví thiếu dạ phóng khoáng
Lên đây trăm mối lo
Mới biết sức đạo Phật
Đủ dục ta thăm dò
Hang rồng vin với lên
Qua khỏi nơi lần mò
Bẩy sao kề cửa Bắc
Miền Tây nghe sóng xô
Hy Hoà quất ngày trắng
Thiếu Hiệu ra oai thu
Non Tần bỗng vỡ vụn
Kinh, Vị trông lù mù
Cúi nhìn man mác cả
Nào đâu là kinh đô?
Quay lại gọi Ngu, Thuấn
Mây lấp trời Thương Ngô
Cảnh tiên bầy tiệc ngọc
Tiếc thay chén tạc thù
Hộc vàng bay chẳng nghỉ
Kêu thương ai thấu cho?
Theo thời kìa lũ nhạn
Mồi ăn đều đủ no


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Ngọn tháp cao ngất trời,
Gió mạnh không ngưng thổi.
Vì lòng chẳng thảnh thơi,
Trăm lo lên mong giải.
Mới hay đạo Phật mầu,
Đủ để mà theo dõi.
Lần theo hang rắn rồng,
Chỗ tối mới ra khỏi.
Cửa bắc hiện bảy sao,
Ngân hà hướng tây chảy.
Hy Hoà quất bóng ngày,
Thiếu Hạo đem thu tới.
Núi Tần như vỡ toang,
Kinh, Vị chẳng thấy lối.
Chỗ vua nào thấy đâu,
Nhìn xuống khí một khối.
Quay đầu gọi Thuấn, Nghiêu,
Thương Ngô mây sầu nổi.
Tiếc thay tiệc Dao Trì,
Gò Côn Lôn suốt buổi.
Hộc vàng bay, bay luôn,
Kêu thương, nào chỗ gửi?
Anh thấy nhạn theo thời,
Mong kê gạo đỡ đói.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Đỉnh tháp cao trời xanh muốn vượt
Gió lớn không có lúc nào ngưng
Chẳng riêng kẻ sĩ sáng lòng
Mà ưu phiền cũng bay tung mất rồi
Tượng giáo mới hay đầy uy lực
Giúp ta tìm đạo rất sâu xa
Bậc đi lên thật quanh co
Rồi nhìn xuống thấy cây và cành giao
Chòm Bắc đẩu thấy vào bắc tháp
Ngân hà như nghe được tiếng khơi
Thần Hy Hoà lái mặt trời
Và thần Thiếu Hạo sáng ngời vẻ thu
Núi Tần bỗng chợt như không thấy
Kinh Vị không phân biệt đục trong
Nhìn xem toàn thấy khói sương
Làm sao nhận được châu Hoàng thân yêu
Quay về nam vọng kêu vua Thuấn
Núi Thương Ngô với đám mây buồn
Tiếc xưa Ao ngọc rượu dồn
Ban ngày yến tiệc trên Côn Lôn gò
Chim hộc vàng vòng vo không đáp
Ai oán vì không biết về đâu
Nắng lên lũ nhạn bên nhau
Ông xem chúng chỉ mưu cầu lúa kê.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời