Đăng bởi Vanachi vào 31/05/2004 19:24, đã sửa 3 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 07/04/2006 12:35

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà, mỏi miệng cái da da.
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.


Đèo Ngang thuộc dãy núi Hoành Sơn, một nhánh của dãy Trường Sơn ở Trung Việt, chạy thẳng ra biển làm ranh giới hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình.

[Thông tin 3 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (10 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Chợ hay rợ

1. CHỢ hay RỢ

Ở thời điểm sáng tác bài Qua đèo Ngang, từ CHỢ có thể dùng âm xuất phát TRỢ trong Hán Việt vì lúc này sự đối lập TR > < CH đã bị xoá nhãn, cùng với sự đối lập GI > < D > < R..., vì vậy chữ RỢ cũng có thể ghi bằng TRỢ.

Theo sự thống kê cách ghi âm đầu /R/ trong tự điển chữ Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm (sắp xuất bản), chúng tôi thấy:
Có:
329 trường hợp ghi bằng L
63 trường hợp ghi bằng TR, CH
60 trường hợp ghi bằng Đ
131 trường hợp ghi bằng GI, D
36 trường hợp ghi bằng T (1)

Theo Tự điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính (Nxb Văn nghệ TP HCM và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học), cách ghi âm đầu /R/ chữ Nôm phân bố như sau:
Có:
539 trường hợp ghi bằng L
84 trường hợp ghi bằng TR, CH
110 trường hợp ghi bằng GI, D
27 trường hợp ghi bằng TH...

Như vậy là trường hợp dùng TR, CH ghi R chiếm tần suất khá lớn. Ông Nguyễn Hùng Vĩ (Văn hoá Hà Tĩnh số 71, 6/2004) cho ta biết rằng có 12 tư liệu ghi bài thơ Qua đèo Ngang, trong đó có 5 bản chữ Nôm và 7 bản chữ Quốc ngữ. Các bản chữ Quốc ngữ không cho ta được thông tin gì. Trong 5 bản chữ Nôm có bản AB.620 chữ RỢ được ghi (theo ông là rất lưu loát) bằng bộ nhân đứng (亻) bên cạnh chữ TRỢ (助). Đây là điểm rất có giá trị với sự thống kê trên, nó cho ta thấy 톭 chắc chắn phải đọc là RỢ. Nếu là chữ CHỢ thì ở thời Bà huyện Thanh Quan đã có chữ 닭 (âm TRỢ đã được bỏ tính chất quặt lưỡi, đọc là CHỢ, và chữ thị (市) nghĩa là “cái chợ” biểu nghĩa). Nếu không có cứ liệu Nôm nào bác lại thì chắc chắn đọc là RỢ đúng hơn.

2. Chữ RỢ có ý khinh miệt không?

Ý khinh miệt là ngày nay chúng ta thêm vào, chữ thực tình RỢ chỉ là cách gọi xưa đối với các dân tộc ngoài Hoa Hạ của người Hán. Tiếng Hán có 東 戎, 西 夷, 南 蠻, 北狄 “đông Nhung, tây Di, nam Man, bắc Địch” (phía đông có người Nhung, phía tây có người Di, phía nam có người Man, phía bắc có người Địch). Chữ DI có âm Hán cổ là RỢ. Ta biết lúc đầu ở âm Hán Thượng cổ có âm đầu R, sau này phần lớn thành L và một số thành D, ví dụ:

Chữ Hán Thượng cổ / Hán Trung cổ
龍 Rồng → Long
簾 Rèm → Liêm
樑 Rường (cột) → Lương (đống)
歟 Ru → Dư
夷 RỢ → DI...

Người ta sẽ hỏi tại sao nguyên âm /Ơ/ trong RỢ lại chuyển thành nguyên âm /I/ trong DI được? Theo Bernhard Karlgren trong Gramata serika (Bulletin N.12, Stockholm, 1940), trong tiếng Hán Thượng cổ có các âm /Ơ/, /IƠ/, /IƠI/, sang Hán Trung cổ sẽ chuyển thành /I/. Có thể thấy dấu vết trong cách đọc tiếng Hán ở Việt Nam như sau:

Chữ Tiền Hán Việt Hán Việt / Chữ Tiền Hán Việt Hán Việt
旗 Cờ → Kì
碑 Bia → Bi
疑 Ngờ → Nghi
匙 Thìa → Thì
絲 Tơ → Ti
離 Lìa → Li
詩 Thơ → Thi
眉 Mày → Mi
夷 RỢ → DI
屍 Thây → Thi

Để cho rõ thêm ta cũng có thể chứng minh rằng từ MỌI lúc đầu vốn không có ý gì là khinh miệt cả. Nó bắt nguồn từ MAN như đã nói trên, MAN là dùng để phiên âm từ MON (trong nhóm MON - KHMER), vì trong tiếng Hán cổ không có âm /A/ bẹt mà chỉ có âm /A/ tròn môi /A/, cho nên chữ MAN thời cổ được đọc là MAN, trỏ dân tộc Mon.

Có thể dẫn chứng thêm như từ PNAR Nam Á (cái ná) người Hán lúc này mới có âm /A/ tròn môi nên mượn đọc thành NỖ, quay lại ta lại đọc thành NỎ. Còn MON sang MỌI là do âm cuối /-L/ cổ có xu hướng chuyển thành /-N/ và cuối cùng thành /-I/. Ví dụ:

Chăl (Mường) → Chạy (Việt)
Yơl ‘’ → Dậy ‘’
Pul ‘’ → Búi ‘’
Tơkel (Tha Vừng) → Gáy ‘’
Chốc cún (Phương ngữ Thanh Hoá) → Đầu gối ‘’
Tàu băn ‘’ → Tàu bay ‘’
Thún ‘’ → Thối ‘’
Cưởn ‘’ → Gửi ‘’

Tóm lại là MỌI hay RỢ chỉ là một cách đọc trong tiếng Việt, mà bản thân cách đọc thì không có tội tình gì mà ta phải phê phán nó. Và nếu Bà huyện Thanh Quan có dùng từ RỢ thì cũng chỉ để trỏ những người sống xa kinh đô, xa “Hoa Hạ” của Việt Nam mà thôi.

3. Về chữ NƯỚC

Đa số các nhà tranh luận đều hiểu NƯỚC là đất nước, là tổ quốc. Thực ra không phải thế. NƯỚC chỉ để trỏ một vùng đất. Trong bản giải âm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh (thế kỉ XV - XVI) ta gặp những câu sau: dõi người dỗ thốt trốn đi NƯỚC khác (tr. 19a) xương bạc tan tác trông quê NƯỚC người (tr.19a) xa nhà đi NƯỚC khác, hoặc là nhân buôn bán, hoặc là vì đi chác, lăn lóc luân hồi
(tr. 19b) hoặc ở lâu trong NƯỚC người chẳng hay ghín bó (tr. 19b)
hoặc đi cùng chồng trong NƯỚC xa quê khác, lìa rời áng nạ (tr. 22a)

Qua các dẫn chứng trên ta thấy NƯỚC là chỉ một vùng đất, chưa có nghĩa là đất nước như ngày nay. Đến thời Nguyễn Khuyến, NƯỚC vẫn còn mang nghĩa ấy. Hãy nghe câu thơ của ông:

Một tiếng trên không ngỗng nước nào
(Thu vịnh).
Chữ QUỐC trong bài thơ như đã biết được viết là 蟈 hay 돐, là tên chim đỗ quyên hay chim cuốc. Ghi là QUỐC hay CUỐC là do người phiên, trong chữ Nôm thì ghi như nhau. Đây là cách chơi chữ của tác giả. GIA GIA là đa đa, giống gà nhỏ sống ở ven rừng (theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, Nxb Giáo dục, H, 1992). Đa đa có thể biến âm thành DA DA, giống như các trường hợp sau:

Đình → Dừng
Đao → Dao
Đốc (tâm) → Dốc (lòng)
Đẩy → Dẩy...

Giữ DA DA và GIA GIA không có gì khác nhau vì lúc này đã có sự xoá nhãn giữa đối lập D > < GI. Phiên là DA DA hay GIA GIA là do người phiên âm, và cũng để phô tài chơi chữ của tác giả. Có tiếng kêu của chim cuốc hay đa đa hay không là do người viết căn cứ vào hiện thực hoặc tâm tưởng. Giữa lúc mặt trời “xế tà” thì nỗi nhớ quê hương đã trở thành ước lệ trong thơ cổ. Các nhà tranh luận có bàn về cách đối, cho rằng người phải đối với người, vật phải đối với vật. Đấy là cách nghĩ của người ngày nay. Các nhà sáng tác xưa viết văn đối ngẫu theo cái học từ chương. Thêm nữa, ngành ngữ pháp của ta cùng với việc phân định từ loại cũng chỉ mới có từ lúc người Pháp sang, trong khi ngành âm vận và huấn hỗ của Trung Hoa thì ông cha ta đã thông thạo từ lâu. Về đối bằng - trắc thì không có gì phải bàn, ông cha ta đã nắm được nó từ khi tiếng Việt xuất hiện đầy đủ thanh điệu, tức là từ thế kỉ XII theo ý kiến của các nhà nghiên cứu về ngữ âm lịch sử tiếng Việt. Còn để đối ý thì người xưa chia các từ ra làm 4 loại:
- Thực: gồm danh từ và đại từ nhân xưng
- Bán thực: gồm động từ và tính từ đơn tiết
- Bán hư: gồm tính từ đa tiết, từ láy và từ lặp
- Hư: gồm hư từ
(vế bên phải là do người ngày nay xác định ra)

Nếu đem tiêu chuẩn ấy mà so thì bài Qua đèo Ngang có cách đối rất chỉnh không chê vào đâu được, và CHỢ hay RỢ đều được cả, đều đúng với phép đối, nhưng RỢ thì đúng với ý nghĩa chung của bài hơn.


Thử bàn về vấn đề phiên Nôm, GS. TS. Nguyễn Ngọc San, Trường Đại học Sư phạm, Hà Nội
Hội nghị Quốc tế về chữ Nôm 12,13-11-2004
Thư viện Quốc gia Việt Nam – Hà Nội

(1) Thực ra, [R] là cách đọc cũ của [T]. Ta so sánh: 鬚 Râu - Tu, 婿 Rể - Tế, 卒 Rốt - Tốt...
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
204.40
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch chữ Hán của Nguyễn Văn Thích

Bộ đáo Hoành Quan nhật dĩ tà,
Yên ba gian thạch, thạch gian hoa.
Tiều quy nham hạ, ta ta tiểu,
Thị tập giang biên, cá cá đa.
Đỗ vũ tâm thương, thanh quốc quốc,
Giá cô hồn đoạn, tứ gia gia.
Đình đình trữ vọng: thiên, sơn, hải,
Nhất phiến cô hoài, ta ngã ta.

步到橫關日已斜,
煙波間石石間花。
樵歸岩下些些小,
市集江邊箇箇多。
杜宇心傷聲國國,
鷓鴣魂斷思家家。
停停佇望天山海,
一片孤懷嗟我嗟。


Nhân dịp phái đoàn của tổng thống Ngô Đình Diệm (nam Việt Nam) sang thăm Đài Loan năm 1959-1960, linh mục Nguyễn Văn Thích đã dịch bài thơ này sang chữ Hán tại bữa tiệc. Trong thực đơn có món giá cô nên cụ đã nảy ý dịch rồi đề sau tờ thực đơn (vì không có chữ Hán in kèm nên xin đưa ra bản chữ quốc ngữ, sau đó sẽ thử chuyển sang chữ Hán).

Nguồn: http://www.viethoc.org/phorum/read.php?11,14703
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
104.50
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch chữ Hán của Lý Văn Hùng

Quá Hoành sơn đỉnh tịch dương tà
Thảo mộc tê nham diệp sấn hoa
Kỳ khu lộc tế tiều tung yểu
Thác lạc giang biên điếm ảnh xa
Ưu quốc thuơng hoài hô quốc quốc
Ái gia quyện khẩu khiếu gia gia
Tiểu đình hồi vọng thiên sơn thuỷ
Nhất phiến ly tình phân ngoại gia

過橫山頂夕陽斜,
艸木擠巖葉趁花。
崎嶇麓際樵蹤杳,
錯落江邊店影賒。
憂國傷懷呼國國,
愛家倦口叫家家。
小停迴望天山水,
壹片離情分外加。

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
104.60
Trả lời
Ảnh đại diện

Phân tích bài thơ “Qua đèo Ngang”

Phải hiểu rõ và yêu quý bài thơ mới thấy hết được tài năng cũng như tư tưởng luôn hướng về quê hương đất nước và gia đình của Bà huyện Thanh Quan. Ai dám bảo rằng người phụ nữ trong xã hội phong kiến không có được những tình cảm thiêng liêng đó?

Có nơi đâu đẹp tuyệt vời
Như sông như núi, như người Việt Nam
Câu thơ thể hiện niềm kiêu hãnh, tự hào về non sông đất trời Việt Nam. Thiên nhiên trên quê hương ta có vẻ đẹp mộng mơ, chan hoà sức sống. Chính vì vậy, thiên nhiên luôn là dề tài bất tận của thi ca. Lúc thì lung linh, huyền diệu như trong mộng, lúc lại rực rỡ, kiêu sa tựa ánh mặt trời. Nhưng đồng thời, cảnh vật cũng sẽ nhuốm màu ảm đạm, thê lương dưới ánh mắt của các nhà thơ mang một tâm sự u hoài khi sáng tác một bài thơ tức cảnh. Vì thế, đại thi hào Nguyễn Du đã từng nói: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Câu thơ thật thích hợp khi ta liên tưởng đến Bà huyện Thanh Quan với bài thơ Qua đèo Ngang.

Phải hiểu rõ và yêu quý bài thơ mới thấy hết được tài năng cũng như tư tưởng luôn hướng về quê hương đất nước và gia đình của Bà huyện Thanh Quan. Ai dám bảo rằng người phụ nữ trong xã hội phong kiến không có được những tình cảm thiêng liêng đó?

Chỉ mới đọc hai câu đầu của bài thơ thôi:
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
là ta đã nhận ngay ra một nỗi buồn xa vắng.

Câu thơ xuất hiện cụm từ bóng xế tà và sự hiện diện của điệp từ chen cùng cách gieo vần lưng lá, đá đã tạo nên sự cô đơn, tĩnh mịch. Từ tà như diễn tả một khái niệm sắp tàn lụa, biến mất. Yếu tố thời gian làm cho câu thơ thêm phần buồn bã. Ca dao cũng đã có câu:
Vẳng nghe chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau
Thế mới biết, những tình cảm cao quý của mỗi người dường như gặp nhau ở một điểm. Đó chính là thời gian. Mà quãng thời gian thích hợp nhất để bộc lộ sự nhớ nhung khắc khoải chính là lúc chiều về. Ở bài thơ Qua đèo Ngang, tác giả bỗng dâng lên cảm xúc man mác khi bà bắt gặp ánh hoàng hôn bao phủ cảnh vật ở Hoành Sơn. Cảnh vật đã buồn lại trống vắng hơn bởi điệp từ chen ở câu thứ hai. Nó làm cho người đọc thơ bỗng cảm nhận được sự hoang vắng của đèo Ngang lúc chiều tà, bóng xế mặc dù nơi đây rất đẹp: có cỏ cây, đá, lá, hoa. Vì ở đây vắng vẻ quá nên thi sĩ đã phóng tầm mắt để tìm kiếm một chút gì gọi là sự sống linh động. Và kìa, phía xa xa dưới chân đèo xuất hiện hình ảnh:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Câu thơ gợi cho tả hình dung trong ánh hoàng hôn lạnh lẽo, mấy người tiều phu đang đốn củi, mấy quán chợ xiêu xiêu trong gió. Đảo ngữ đưa hai từ láy lom khom, lác đác lên đầu câu đã được tác giả sử dụng như nhấn mạnh thêm sự u hoài ở đây. Nhà thơ đi tìm một sự sống nhưng sự sống đó lại làm cho cảnh vật héo hắt, buồn bã hơn, xa vắng hơn. Sự đối lập vốn có của hai câu thực khiến cho cảnh trên sông, dưới núi thêm rời rạc, thưa thớt. Từ vài, mấy như càng nói rõ thêm sự vắng vẻ ở nơi này. Trong sự hiu quạnh đó, bỗng nhiên vẳng lên tiếng kêu đều đều, man mác của loài chim quốc quốc, chim gia gia trong bóng hoàng hôn đang buông xuống.

Từ ghép đau lòng, mỏi miệng khiến cho ta có cám giác tha thiết, ray rứt. Từ nhớ nước, thương nhà là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ? Nghệ thuật chơi chữ quốc quốc gia gia phải chăng là Tổ quốc và gia đình của Bà huyện Thanh Quan hồi đó?

Sự song song về ý, về lời của hai câu thơ trong phần luận của bài thơ này nhằm nhấn mạnh tình cảm của Bà huyện Thanh Quan đối với Tổ quốc, gia đình trước cảnh thật là khéo léo và tài tình. Từ thực tại của xã hội đương đời mà bà đang sống cho đến cảnh thực của đèo Ngang đã khiến cho tác giả sực nhớ đến mình và tâm sự:
Dừng chân dứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Câu kết của bài, ta cảm thấy nhà thơ có tâm sự u hoài về quá khứ. Dừng lại và quan sát bà chỉ thấy: trời, non, nước. Vũ trụ thật rộng lớn, xung quanh bà là cả một bầu trời với núi, với sông khiến cho con người cảm thấy mình bé nhỏ lại, đơn độc, trống vắng, ở đây, chỉ có một mình bà ta với ta, lại thêm mảnh tình riêng cho nước, cho nhà trong huyết quản đã làm cho cõi lòng nhà thơ như tê tái. Vũ trụ bao la quá! Con người cô đơn quá! Tất cả lại được diễn tả dưới ngòi bút tài hoa của người nữ sĩ nên bài thơ là bức tranh đặc sắc. Từ ta với. ta như một minh chứng cho nghệ thuật điêu luyện trong sáng tác thơ ca của Bà huyện Thanh Quan. Bởi vì cũng ta với ta nhưng nhà thơ Nguyễn Khuyến lại nói:
Bác đến chơi đây ta với ta
lại là sự kết hợp của hai người: tuy hai mà một, tuy một mà hai. Còn bà Huyện lại:
Một mảnh tình riêng ta với ta.
đã tô đậm thêm sự lẻ loi, đơn chiếc của mình. Qua câu thơ, ta như cảm nhận sâu sắc hơn nỗi niềm tâm sự của tác giả trước cảnh tình quê hương.

Phân tích bài thơ rồi, em hiểu sâu sắc hơn, thấm thía hơn tình cảm của một nhà thơ nữ trong xã hội thời xưa, giúp em thêm yêu quý đất nước và con người Việt Nam. Em cảm thấy vững vàng trong tư tưởng và có những suy nghĩ tích cực hơn góp phần xây dựng quê hương đất nước Việt Nam thêm giàu đẹp, để giữ mãi được những dấu tích mà người xưa để lại như gửi gắm, nhắc nhở và trao gởi cho chúng em.

Từ xưa đến nay, có nhiều nhà thơ tả cảnh đèo Ngang nhưng không ai thành công bằng Bà huyện Thanh Quan vì trong tác phẩm của bà có cả tâm hồn, tình cảm, nỗi lòng và tài năng của một cây bút tuyệt vời. Cả bài thơ được gieo vần "a" như chính tâm sự hoài cổ của tác giả. Chúng ta không tìm thấy dù chỉ một chút gọi là sự ồn ào trong cách miêu tả. Tất cả chỉ là sự trầm lắng, mênh mang như chính tâm sự của tác giả.

Lời thơ nghe xao xuyến, bồi hồi làm cho người đọc xúc động cũng chính là những cảm xúc sâu lắng của Bà huyện Thanh Quan khi đặt chân lên đèo Ngang trong khung cảnh miền núi khi hoàng hôn buông xuống. Cũng những cảm xúc ấy, ta sẽ gặp lại khi đọc bài Chiều hôm nhớ nhà của bà với câu:
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa, vẳng trống dồn.
Để tỏ lòng biết ơn đối với nhà thơ xưa đã cho ta những phút giây có được tình cảm tốt đẹp xuất phát từ đáy tâm hồn, từ sự rung cảm thật sự, người đời đã đặt một tên làng, một tên đường: Bà huyện Thanh Quan để mãi mãi ghi nhớ tài năng cũng như tư tưởng tuyệt vời của người,nữ sĩ đối với non sông, đất nước một thời đã qua.

Shrek - Chằn Tinh Xanh yêu thơ
144.21
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Cảm nhận của em về bài thơ "Qua đèo Ngang"

Trong dòng văn thơ cổ Việt Nam có 2 nữ thi sĩ được nhiều người biết đến đó là Hồ Xuân Hương và Bà huyện Thanh Quan. Nếu như thơ văn của Hồ Xuân Hương sắc sảo, góc cạnh thì phong cách thơ của Bà huyện Thanh Quan lại trầm lắng, sâu kín, hoài cảm...

Chẳng vậy mà khi đọc bài thơ Qua đèo Ngang người đọc có thể thấu hiếu bức tranh vịnh cảnh ngụ tình sâu sắc, kín đáo của nhà thơ.

Nhà thơ mở đầu bài thơ bằng việc tả cảnh đèo nhìn từ trên cao. Khi bóng chiều đã xế, có đá núi, cây rừng, có bóng tiều phu di động, có những mái nhà ven sông... mà sao heo hút, đìu hiu đến nao lòng.

Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa...
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Cảnh gợi lên trong tâm hồn tình cảm của con người giọt buồn, giọt nhớ.... Trời đã xế chiều, bóng đã dần tàn... cảnh tượng ấy rất phù hợp với tâm trạng của Bà huyện Thanh Quan lúc này.. Đó là nỗi u hoài, gợi buồn trước sự đổi thay của xã hội. Thế nên nhà thơ Nguyễn Du cũng đã nói:
Cảnh nào cảnh chẳng gieo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Cảnh vật ở đây cũng thật sinh động đấy: Có cả cỏ với cây điểm thêm lá và hoa nhưng tất cả lại được hiển hiện trong hoạt động "chen chúc". Đứng trước cảnh tượng đó khiến cho con người càng gợi lên sự hoang mang, khiếp hãi. Cảnh vật thì bao la làm cho tâm hồn con người đã hiu quạnh, đơn chiếc tăng thêm sự cô đơn, vắng lặng gần như hoàn toàn trống trãi. Nhà thơ quan sát tổng thể cảnh nơi đây. Con người xuất hiện. Nhưng con người càng tô đậm thêm sự buồn vắng. Chính cảnh tượng ấy càng tạo cho nhà thơ những cảm giác hiu quạnh, tẻ nhạt, trống trải.

Tức cảnh sinh tình:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Nỗi nhớ thương, đau đớn đến tận cùng của lòng người với nhà, với nước, với thân phận cô đơn của mình lại được cộng hưởng bởi những âm vang trong tiếng kêu khắc khoải không dứt của chim cuốc giữa đỉnh cao chon von, nhìn lên chỉ thấy trời cao, nhìn xa chỉ thấy mây nước vời vợi...

Nhà thơ đã lắng nghe âm thanh của cảnh Đèo Ngang. Nhưng đó không phải là tiếng kêu của loài chim cuốc, chim đa đa. Mà nói cho đúng đó chính là tiếng lòng của nhà thơ. Nhà thơ mượn hình ảnh loài chim cuốc muốn gợi sự tiếc nuối về quá khứ, triều đại nhà Lê thời kì vàng son, hưng thịnh nay không còn nữa. Gia tộc của nhà thơ vốn trung thành với nhà Lê nhưng không thể nào theo một chế độ đã thối nát. Vả lại đây là lần đầu tiên có lẽ nhà thơ xa nhà nên "cái gia gia" gợi nỗi thuỷ chung, thương nhớ quê nhà. Cảnh vật vắng lặng, đơn chiếc, xót xa, buồn bã. Càng làm cho nhà thơ mỗi lúc nỗi buồn hoài cảm càng tăng.
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Cả thân xác lẫn tâm linh của nhà thơ hoàn toàn tĩnh lặng. Nhà thơ cảm nhận thế giới thiên nhiên nơi đây thật rộng khoáng, bao la. Trong khi đó, con người chỉ là "một mảnh tình riêng". Con người mang tâm trạng cô đơn, trống vắng hoàn toàn. Thiên nhiên với con người hoàn toàn đối lập với nhau càng làm nổi bật tâm trạng cô đơn, phủ nhận thực tại của nhà thơ.

Qua đèo Ngang là một bài thơ trữ tình đặc sắc. Với cách sữ dụng ngôn từ trang nhã nhưng rất điêu luyện đã giúp người đọc thấy được bức tranh vịnh cảnh ngụ tình sâu kín. Cảnh Đèo Ngang thật buồn vắng phù hợp với tâm trạng con người cô đơn hoài cảm. Từ bài thơ, cảm thụ tâm cảm của nhà thơ, ta càng cảm thông nỗi lòng của tác giả và kính phục tài năng thi ca của Bà huyện Thanh Quan.

203.60
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Phải chăng Bà huyện Thanh Quan đã trau chuốt lại bài thơ Đèo Ngang nguyên thuỷ?

Bà Huyện Thanh Quan và Bà Hồ Xuân Hương là hai nữ sĩ kiệt xuất trong nữ giới của nền Văn Học Việt Nam vào cuốt thế kỷ thứ 18, đầu thế kỷ thứ 19. Điều đó khó ai phản bác được. Hai nữ sĩ, mỗi người mỗi vẽ, mỗi người mỗi cung cách, nhưng cả hai Bà đều độc đáo. Rất nhiều nhà phê bình văn học đã cho Bà Hồ Xuân Hương có một văn phong “bình dân”, dùng rặt chữ Nôm, còn Bà Huyện Thanh Quan thì có văn phong “bác học”, xen Hán tự nhiều trong tác phẩm của mình.

Thật thế, ta thấy rất nhiều thành ngữ chữ Hán trong tác phẩm của Bà Huyện. Theo Wikipedia Tiếng Việt, ngày nay ta chỉ còn 6 bài thơ “thất ngôn bát cú” của Bà, ngoại trừ bài Cảnh thu, mà người ta cho rằng có thể là của Bà Hồ Xuân Hương. Trong 6 bài đó có rất nhiều thành ngữ chữ Hán, trừ bài Qua Đèo Ngang.

“Thành ngữ chữ Hán” tôi muốn nói ở đây, có nghĩa là ta có thành ngữ chữ Việt (Nam, Nôm) tương đương, như Triêu Mộ 朝 暮, ta có Sớm Tối; Tuế Nguyệt 歲 月, ta có Năm Tháng; Đoạn Trường 斷腸; ta có Đứt Ruột…

Mặt khác, tôi tìm thấy trong Contes et Légendes du Pays d’Annam của Lê Văn Phát, viết năm 1913, in lần thứ 2, tại Imprimerie de l’Union Nguyễn Văn Của, Sàigòn 1925, có bài Le Râle d’eau. Trong Le Râle d’eau lại có bài Đèo Ngang, vô danh, rặt chữ Nôm, văn phong rất mộc mạc, còn nội dung thì giống hệt nội dung bài Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan.

Bài Le Râle d’eau kể chuyện ngày xưa. Chuyện vua La Hoa (?) nước Chiêm Thành đem quân đánh Giao Chỉ. Môt cận thần tên Quốc đã hết lời can gián và xin hoãn lại cuộc viễn chinh, nhưng nhà vua không nghe. Biết rằng trận chiến này thế nào cũng đem lại thất bại, Quốc xin theo, hầu quyết tâm bảo vệ an toàn cho chúa.

Cuộc chiến xảy ra ở Đèo Ngang. La Hoa, quá hiếu chiến, quá chủ quan, tiến thẳng đến trận tiền, nên bị trúng tên mà chết. Quá đau đớn, Quốc liều xông ra chém giết giữa muôn tên ngàn giáo để báo thù. Nhưng đơn thương độc mã, nên Quốc đã chết dưới làn sóng của địch quân. Quá uất ức, hồn của Quốc không siêu thoát được, cứ phảng phất quanh Đèo Ngang để tìm xác chủ, nhưng vô hiệu quả. Sau đó Quốc tái sinh dưới dạng con chim Cuốc để đêm đêm rít lên những tiếng kêu bi ai của một vị trung thần khóc quốc vương tử trận: “Quốc Quốc, La Hoa”, Quốc ở đây,còn La Hoa ở đâu?

Một văn nhân vô danh, đi qua Đèo Ngang, nhớ lại chuyện xưa, đã làm bài thơ Đèo Ngang.

Ông Lê Văn Phát chỉ để lại hai tác phẩm La vie intime d’un Annamite et ses croyances vulgaires (Bulletins de la Société des Etudes Indochinoises, Imprimerie F.H Schneider Sàigòn 1907), và Contes et Légendes du Pays d’Annam (Imprimerie de l’Union Nguyễn Văn Của, Sàigòn 1913), bằng chữ Pháp. Như thế, có thể ông Lê Văn Phát không biết nhiều về các tác phẩm của Bà Huyện Thanh Quan. Những bài của ông Lê Văn Phát viết, toàn là chuyện cổ tích, huyền thoại dân gian cả. Bài Đèo Ngang trong Contes et Légendes du Pays d’Annam có thể là một giai thoại dân gian lâu đời, có trước thời Bà Huyện Thanh Quan chăng. Sau đây là bài Đèo Ngang theo ông Lê Văn Phát:

Đèo Ngang

Qua ải Đèo Ngang bóng ác tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen ba.
Non cao rải rác tiều vài lão,
Đất rộng lai rai xóm mấy nhà.
Nhớ chúa đau lòng con Quốc-Quốc,
Kêu người mỏi miệng tiếng Hoa-Hoa.
Dừng chơn ngóng cổ miền non nước,
Một tấm lòng riêng ta với ta.

Vô danh.

[... Quốc-Quốc, tên của trung thần Quốc]
[... Hoa-Hoa, tên của vua La Hoa]
Vậy phải chăng Bà Huyện đã lấy bài đó, đã có từ lâu, và trau chuốt lại thành một bài thơ bất hủ như ta đã biết:
Qua đèo Ngang

Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ (rợ) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Bà Huyện Thanh Quan
Ta thử từ từ kiểm xét xem. Sáu bài thơ của Bà Huyện như sau:
1 – Chùa Trấn Bắc

Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau
Mấy toà sen toả hơi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá
Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu.
Trong 8 câu của bài nầy, ta thấy có 6 câu dùng 5 thành ngữ chữ Hán và 1 chữ Hán. Cộng tất cả 11 chữ Hán:

Hành cung 行 宮;
cố quốc 故 國;
hương ngự 香 御;
phong 風
phế hưng 廢 興;
kim cổ 今 古;

2 – Đền Trấn Võ

Êm ái chiều xuân tới Trấn đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Ba hồi triêu mộ *, chuông gầm sóng
Một vũng tang thuơng, nước lộn trời
Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá
Cực lạc là đây, chín rõ mười
Trong 8 câu của bài nầy, ta thấy có 6 câu dùng 4 thành ngữ chữ Hán và 4 chữ Hán. Cộng tất cả 12 chữ Hán:

trấn đài 鎮 臺
trần ai 塵 埃
triêu mộ 朝 暮 (sớm tối)*.
tang thương 桑 蒼
ái 愛; trùng 重
ân 恩; trượng 丈

* Ba hồi triêu mộ là ba hồi chuông sớm tối. Có rất nhiều tác giả, ngay cả các tác giả gốc miền Trung và miền Nam là những người phân biệt rõ ràng hai phụ âm đầu tr và ch đã lầm lẫn viết sai hai chữ chiêu mộ thay cho hai chữ triêu mộ, như trên Wikipedia Tiếng Việt.

3 – Cảnh chiều hôm

Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn
Gác mái, ngư ông về viễn phố
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa, khách buớc dồn
Kẻ chốn chương đài nguời lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
Trong 8 câu của bài nầy, ta thấy có 5 câu dùng 8 thành ngữ chữ Hán. Cộng tất cả 16 chữ Hán:

Hoàng hôn 黃 昏;
ngư ông 漁 翁; viễn phố 遠 鋪;
mục tử 牧 子; cô thôn 孤 村;
chương đài 章 臺; lữ thứ 旅 次;
hàn ôn 寒 溫.

4 – Thăng Long thành hoài cổ

Tạo hoá gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luốn đoạn trường.
Bài nầy đã phá kỷ lục, trong 8 câu, mỗi câu đều có thành ngữ chữ Hán, với 10 thành ngữ. Cộng tất cả là 20 chữ Hán:

tạo hoá 造 化; hí trường 戲 場
tinh sương 星 霜 (năm)
thu thảo 秋 艸
lâu đài 樓 臺; tịch dương 夕 陽
tuế nguyệt 歲 月
tang thương 桑 蒼
kim cổ 今 古
đoạn trường 斷 腸

Chỉ có bài:

5 – Nhớ nhà

Vàng toả non tây, bóng ác tà
Đầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa
Ngàn mai lác đác, chim về tổ
Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà
Còi mục thét trăng miền khoáng dã
Chài ngư tung gió bãi bình sa
Lòng quê một bước càng ngao ngán
Mấy kẻ tình chung có thấu là
Vỏn vẹn 2 câu với 2 thành ngữ và 2 chữ Hán. Tất cả 6 chữ Hán.

mục 牧; khoàng dã 曠 野
ngư 漁; bình sa 平 沙

6 – Qua Đèo Ngang

Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ (rợ) mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Bài nầy không có chữ Hán, hay có chăng là 2 chữ rất thông dụng, chữ quốc 國, chữ gia 家 lập lại 2 lần. Hơn nữa, hai chữ Quốc Quốc, Gia Gia là hai tượng thanh của tiếng kêu của con Cuốc Cuốc (Đỗ Quyên) và con Đa Đa (Gà Gô).

Vậy, phải chăng Bà Huyện Thanh Quan đã lấy bài Đèo Ngang đã truyền khẩu trong dân gian từ lâu, rồi trau chuốt lại, chứ không phải Bà làm ra, vì bài Qua Đèo Ngang, chẳng những không có văn phong “bác học” của các bài khác của Bà Huyện, mà lại “bình dân”, tuy đã trau chuốt hơn văn phong rất mộc mạc và rặt tiếng Nam (Nôm) của bài Đèo Ngang mà Lê Văn Phát đề cập tới trong Contes et Légendes du Pays d’Annam.

Mong độc giả cho ý kiến


Nguyễn Vĩnh Tráng
93.33
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Phân tích bài thơ “Qua đèo Ngang”

Tên thật là Nguyễn Thị Hinh sống trong nửa đầu thế kỷ 19. Quê ở làng Nghi Tàm, ven Hồ Tây, kinh thành Thăng Long. Bà xuất thân trong một gia đình quan lại, có nhan sắc, có học, có tài thơ Nôm, giỏi nữ công gia chánh – bà được vua Minh Mệnh vời vào kinh đô Phú Xuân làm nữ quan “Cung trung giáo tập”. Chồng bà là Lưu Nghi làm tri huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình, nên người đời trân trọng gọi bà là Bà huyện Thanh Quan.

Bà chỉ còn để lại 6 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật: Qua đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà, Thăng Long thành hoài cổ, Chùa Trấn Bắc, Chơi đài Khán Xuân Trấn Võ, Tức cảnh chiều thu.

Thơ của bà hay nói đến hoàng hôn, man mác buồn, giọng điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu luyện.

Trên đường vào Phú Xuân…, bước tới Đèo Ngang lúc chiều ta, cảm xúc dâng trào lòng người, Bà huyện Thanh Quan sáng tác bài Qua Đèo Ngang. Bài thơ tả cảnh Đèo Ngang lúc xế tà và nói lên nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhà của người lữ khách – nữ sĩ.

Lần đầu nữ sĩ “bước tới Đèo Ngang”, đứng dưới chân con đèo “đệ nhất hùng quan” này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng bình, vào thời điểm “bóng xế tà”, lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời đã “tà”, đã nghiêng, đã chênh chênh. Trời sắp tối. Âm “tà” cũng gợi buồn thấm thía. Câu 2, tả cảnh sắc: cỏ cây, lá, hoa… đá. Hai vế tiểu đối, điệp ngữ “chen”, vần lưng: “đá” – “lá”, vần chân: “tà” – “hoa”, thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước:

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Chỉ có hoa rừng, hoa dại, hoa sim, hoa mua. Cỏ cây, hoa lá phải “chen” với đá mới tồn tại được. Cảnh vật hoang sơ, hoang dại đến nao lòng.

Nữ sĩ sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du dương, đọc lên nghe rất thú vị:
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Điểm nhìn đã thay đổi: đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn xa. Thế giới con người là tiểu phu, nhưng chỉ có “tiều vài chú”. Hoạt động là “lom khom” vất vả đang gánh củi xuống núi. Một nét vẽ ước lệ rong thơ cổ (ngư, tiều, canh, mục) nhưng rất thần tình, tinh tế trong cảm nhận. Mấy nhà chợ bên sông thưa thớt, lác đác. chỉ mấy cáilèu chợ miền núi, sở dĩ nữ sĩ gọi “chợ mấy nhà” để gieo vần mà thôi: “tà” – “hoa” – “nhà”. Cũng là cảnh hoang vắng, heo hút, buồn hoang sơ nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế tà.

Tiếp theo nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim rừng: chim gia gia, chim cuốc gọi bầy lúc hoàng hôn. Điệp âm “con cuốc cuốc” và “cái gia gia” tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Lấy cái động (tiếng chim rừng) để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm trên đỉnh đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn, đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh trong thi pháp cổ. Phép đối và đảo ngữ vận dụng rất tài tình:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Nghe tiếng chim rừng mà “nhớ nước đau lòng”, mà “thương nhà mỏi miệng” nỗi buồn thấm thía vào 9 tầng sâu cõi lòng, toả rộng trong không gian từ con đèo tới miền quê thân thương. Sắc điệu trữ tình dào dạt, thiết tha, trầm lắng. Lữ khách là một nữ sĩ nên nỗi “nhớ nước”, nhó kinh kỳ Thăng Long, nhớ nhà, nhó chồng con, nhớ làng Nghi Tàm thân thuộc không thể nào kể xiết!

Bốn chữ “dừng chân đứng lại” thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn mênh mang: “Trời non nước”; nhìn xa, nhìn gần, nhìn cao, nhìn sâu, nhìn 4 phía… rồi nữ sĩ thấy vô cùng buồn đau, như tan nát cả tâm hồn, chỉ còn lại “một mảnh tình riêng”. Lấy cái bao la, mênh mông, vô hạn của vũ trụ, của “trời non nước” tương phản với cái nhỏ bé của “mảnh tình riêng”, của “ta” với “ta” đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khác khi đứng trên cảnh Đèo Ngang lúc ngày tàn. Đó là tâm trang nhớ quê, nhớ nhà:
Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Qua Đèo Ngang là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật tuyệt bút. Thế giới thiên nhiên kỳ thú của Đèo Ngang như hiển hiện qua dòng thơ. Cảnh sắc hữu tình thấm một nỗi buồn man mác. Giọng thơ du dương, réo rắt. Phứp đối và đảo ngữ có giá trị thẩm mỹ trong nét vẽ tạo hình đầy khám phá. Cảm hứng thiên nhiên trữ tình chan hoà với tình yêu quê hương đất nước đậm đà qua một hồn thơ trang nhã. Bài thơ Qua Đèo Ngang là tiếng nói của một người mà trở thành khúc tâm tình của muôn triệu người, nó là bài thơ một thời mà mãi mãi – bài thơ non nước.

Dương dê-Không dê chỉ dương
84.62
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Phân tích nhận xét của Tế Hanh

Phân tích nhận xét của Tế Hanh có một nhận xét: Trong bài Qua đèo Ngang, hai câu thơ xuất sắc nhất là hai câu thơ sau cùng. Hai câu này vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra một chân trời cảm xúc mới.

Trời, non, nước hiện lên trong cảnh chiều tà vắng lặng, tĩnh mịch như đang muốn nuốt lấy con người bé nhỏ của nhà thơ. Tác giả chỉ còn như một chấm nhỏ trong bức tranh thiên nhiên ngút ngàn hoang vắng ấy. Câu thơ đã thâu tóm được cảnh trong bài thơ.

Trong những nhà thơ nữ của ta ngày trước, sau nữ sĩ Hồ Xuân Hương người có phong cách rõ ràng nhất là bà Huyện Thanh Quan. Khác với những lời thơ rắn rỏi mạnh mẽ đầy khẩu khí Hồ Xuân Hương, thơ bà Huyện Thanh Quan là những lời thơ trang nhã nhẹ nhàng mang tính chất cung đình và luôn gợi nỗi buồn man mác. Trong những bài thơ bà để lại cho đời có lẽ tiêu biểu nhất là bài thơ Qua đèo Ngang. Đây là bài thơ tả cảnh ngụ tình độc đáo mà đặc sắc nhất là hai câu thơ cuối, đúng như nhận định của Tế Hanh trong bài Một bài thơ của bà Huyện Thanh Quan.

Trong bài thơ Qua đèo Ngang hai câu thơ xuất sắc nhất là hai câu thơ sau cùng:

Dừng chân dứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Hai câu này vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra một chân trời cảm xức mới.

Phân tích tìm hiểu bài thơ chúng ta sẽ thấy rõ nhận định của Tế Hanh vô cùng tinh tế.

Chỉ với mười bốn tiếng gói trọn trong hai dòng, hai câu thơ tổng kết mọi ý trong bài. Ta thấy được toàn cảnh Đèo Ngang lắng đọng trong câu thơ “Dừng chân dứng lại trời non nước”. Đọc lời thơ ta hình dung được hình ảnh của nữ sĩ. Đang bước đi trên đỉnh đèo bà chợt dừng chân đứng lại. Trước mắt nhà thơ là cảnh trời, non, nước mênh mông bao la trống vắng. Trời trong bóng xế tà đang bao phủ lên mọi vật, làn khí ban chiều toả hơi giá buốt gợi sự hoang vắng cô liêu. Thêm vào đó, Đèo Ngang đồ sộ uy nghiêm sừng sững giữa khung trời bao la, cỏ cây hoa lá rậm rạp chen chúc nhau mọc um tùm. “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Cảnh thiên nhiên ngút ngàn ấy càng trở nên lạnh lẽo cô đơn bởi vẻ thưa thớt của con người lom khom dưới núi, lác đác bên sông. Và bóng dáng nhỏ bé của nữ sĩ dường như mất hút vào không gian mênh mông kia! Là người phụ nữ có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, bà cảm nhận được ngay sự lạc lõng, cô đơn của mình trước thiên nhiên rộng lớn.

Trời, non, nước hiện lên trong cảnh chiều tà vắng lặng, tĩnh mịch như đang muốn nuốt lấy con người bé nhỏ của nhà thơ. Tác giả chỉ còn như một chấm nhỏ trong bức tranh thiên nhiên ngút ngàn hoang vắng ấy. Câu thơ đã thâu tóm được cảnh trong bài thơ.

Và ở đây, tình của nhà thơ cũng được lắng lại trong câu cuối cùng “Một mảnh tình riêng ta với ta”. Mảnh tình riêng đó là tấm lòng của nhà thơ. Mang trong lòng nỗi buồn lúc cất bước ra đi, giờ lại được lan toả trong thiên nhiên, cái buồn ấy day dứt mãi khôn nguôi. Lòng bà thiết tha nhớ về đất nước, nhớ thành Thăng Long xưa cũ, nhớ quá khứ vàng son. Nỗi nhớ nước làm lòng bà đau đớn, xót xa theo từng tiếng kêu khắc khoải của con chim cuốc mà biến mình thành Thục Đế, mãi ôm ấp bóng hình, gọi về nước cũ thành xưa.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Là phụ nữ, bà không thoát khỏi nhi nữ thường tình. Theo mỗi bước chân, bà xa nhà, xa cố nhân thêm một ít, tình cảm càng mỏng manh khiến tâm hồn lạnh lẽo. Nghe tiếng kêu của con đa đa tìm bạn, bà thấy mái ấm gia đình với bao nhiêu người thân thích càng lúc càng xa vời vợi. Tất cả chìm sâu trong khoảnh khắc, giờ đây chỉ còn lại mình bà nơi đèo Ngang hiu quạnh. Mảnh tình riêng ấy được thâu gọn trong câu thơ kết thúc.

Hai câu thơ nhẹ nhàng như khép lại bài thơ, nhưng âm hưởng của lời thơ, cái tình của người làm thơ không khép. Cho nên hai câu thơ vừa kết thúc bài thơ lại mở ra một chân trời cảm xúc mới. Âm vang của câu thơ cuối Một mảnh tình riêng ta với ta như mở cho ta thấy được tâm tình của nữ sĩ ẩn chứa bên trong. Đúng như Tế Hanh đã nhận xét: Thơ là tấm lòng của người làm thơ, cái “cá nhân” của tác giả nói với chúng ta. Ở đây, trong bài thơ này, bà Huyện Thanh Quan đã kín đáo bày tỏ nỗi niềm của mình qua những lời thơ tha thiết. Đó là tâm sự của một con người đang cô đơn lạc lõng trong cảnh chiều tà ở đèo Ngang mang theo nỗi buồn thương nhà, nhớ nước. Đó là nỗi cô đơn, nỗi chán chường, bởi cái thực tại của xã hội đương thời, cảnh sống nhiễu nhương, chế độ đang đến thời kỳ suy tàn, nó không phù hợp với bà. Nỗi buồn riêng ấy là sự phủ nhận thực tại. Đây là sự phủ nhận đáng quý của một con người có tâm hồn trong sạch, có tình cảm thanh cao, yêu nước thương dân. Thế nhưng nỗi buồn ấy, mảnh tình riêng ấy, bà không thể thổ lộ được cùng ai. Nhà thơ đã tự gặp lại mình trong nỗi buồn thương nhớ cô đơn của riêng mình. Một nỗi buồn da diết, không bao giờ dứt. Cả bài thơ êm đềm như dòng sông âm thầm chảy, mặt nước thì lững lờ, nhưng mấy ai biết được sóng ngầm, bão. táp giấu kín ở đâu? Những cảnh vật tĩnh lặng, im lìm đến lạnh lùng ấy lại hé mở giúp ta hiểu được thế giới bên trong của nhà thơ. Đó là ý thức về “cái tôi” ở trong một thời đại mà “cái tôi” ấy đã bị xã hội đè nén.

Tóm lại, hai câu thơ kết thúc bài thơ Qua đèo Ngang đã khắc hoạ đậm nét bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng trong bóng chiều tà với trời non nước bao la, đồng thời cũng in đậm được tình cảm cùa con người, nữ sĩ Thanh Quan với nỗi buồn sâu lắng cô đơn, nỗi buồn thời đại. Bài thơ mang nét đẹp của cảnh vật và cả nét đẹp của tầm hồn con người với một tình cảm đáng quý. Có lẽ vì thế mà bài thơ trở nên quen thuộc với mọi người, sống mãi với thời gian, với bao thế hệ bạn đọc. Ta chợt thấy bóng dáng của nữ sĩ như ẩn hiện trong từng lời thơ trầm buồn.
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.

tửu tận tình do tại
73.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Hoạ thơ

BẠN CÙNG TA

Ngẫm suy thế thái lắm gian tà
Xã hội giả chân loạn sắc hoa
Thiện ít Ác nhiều tham chữ lợi
Phước suy Quả kém hại tông nhà
Bờ mê tu dưỡng toàn nhân loại
Bến giác thương yêu khắp quốc gia
“Trọng nghĩa khinh tài” là phẩm hạnh
Rèn Tâm luyện Đức… bạn cùng ta…

Thiềng Đức - 28/12/2008


(Hoạ bài “Qua Đèo Ngang”, chuyển đề)
-Một chân lí đã "ngộ" ra và tôn thờ:
"Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ Tài"
Nguyễn Du
74.43
Trả lời
Ảnh đại diện

Qua đèo ngang

Hay quá, Tìm mãi mới ra. Thanks

83.88
Trả lời