Trung Tân ngụ hứng

Nhân thôn quán tây nam,
Giang thuỷ quán tây bắc.
Trung hữu bán mẫu viên,
Viên tại Vân Am trắc.
Luân ưởng trần bất đáo,
Hoa trúc thủ tự thực.
Trượng lý tập hoa hương,
Trản giả xâm hoa sắc.
Điểu tị phanh trà yên,
Ngư thôn tẩy nghiễn mặc.
Khiển hứng nhậm thi cuồng,
Phù suy da hữu lực.
Nhân xảo, ngả giả chuyết,
Thuỳ tri chuyết giả đức,
Ngã chuyết, nhân giả xảo,
Thuỳ tri xảo giả tặc.
Kiền khôn tĩnh lý suy,
Cổ kim nhàn trung đắc.
Hiểm mạc hiểm thế đồ,
Bất tiển tiện kinh cúc.
Nguy mạc nguy nhân tâm,
Nhất phóng tiện quỷ quắc.
Quân tử cầu sở chỉ,
Chí thiện tư vi cực.

 

Dịch nghĩa

Phía tây nam quán ấy có làng xóm,
Phía tây bắc quán ấy có sông ngòi.
Ở giữa có nửa mẫu vườn,
Vườn ở bên am Bạch Vân.
Bụi ngựa xe không bám vào được cái am ấy,
Hoa và trúc ở trong vườn chính tay tự trồng lấy.
Khi chống gậy, lê dép ra vườn chơi thì hương thơm của hoa bám vào gậy, dép
Khi nâng chén rượu để thưởng thức thì sắc hoa ánh vào chén rượu.
Khí đun nước để pha trà thì loài chim lánh khói,
Khi rửa nghiên mực, mực chảy xuống thì loài cá nuốt lấy.
Khi thích chí thì ngâm thơ tràn để tiêu khiển,
Lại nhờ có chén rượu nhắp cho hăng hái để đỡ sức già yếu.
Người ta khéo léo mà mình lại vụng về,
Biết đâu vụng về ấy lại là một đức tốt!
Ta khờ dại mà người thì xảo quyệt,
Biết đâu lòng xảo quyệt ấy lại là một cái hại lớn!
Khi tĩnh, suy lẽ tạo hoá,
Lúc nhàn, ngẫm việc xưa nay.
Không gì hiểm bằng đường đời,
Nếu không biết cắt bỏ đi thì toàn là chông gai cả.
Không gì nguy hiểm bằng lòng người,
Nếu không biết giữ gìn mà buông phóng ra thì hoá thành quỷ quái cả.
Vì vậy, người quân tử phải tìm nơi đứng cho vững,
Lấy điều “chí thiện” làm tiêu chuẩn tuyệt đối.


Quán Trung Tân do Nguyễn Bỉnh Khiêm, khi về ở ẩn tại quê nhà, đã cùng các vị bô lão dựng lên, vừa là nơi “thắng địa” (vùng đất đẹp hơn cả), vừa là nơi nghỉ ngơi cho những người qua đường. Quán Trung Tân đã trở thành đề tài quen thuộc trong thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài thơ này được sử dụng làm bài đọc thêm trong chương trình SGK Văn học 10 giai đoạn 1990-2006.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản phiên âm

Ở trên chỉ là bản dịch thơ (của Ngô Lập Chi)
Dưới đây là bản phiên âm bài thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Trung Tân ngụ hứng

Nhân thôn quán tây nam,
Giang thuỷ quán tây bắc.
Trung hữu bán mẫu viên,
Viên tại Vân Am trắc.
Luân ưởng trần bất đáo,
Hoa trúc thủ tự thực.
Trượng lý tập hoa hương,
Trản giả xâm hoa sắc.
Điểu tị phanh trà yên,
Ngư thôn tẩy nghiễn mặc.
Khiển hứng nhậm thi cuồng,
Phù suy da hữu lực.
Nhân xảo, ngả giả chuyết,
Thuỳ tri chuyết giả đức,
Ngã chuyết, nhân giả xảo,
Thuỳ tri xảo giả tặc.
Kiền khôn tĩnh lý suy,
Cổ kim nhàn trung đắc.
Hiểm mạc hiểm thế đồ,
Bất tiển tiện kinh cúc.
Nguy mạc nguy nhân tâm,
Nhất phóng tiện quỷ quắc.
Quân tử cầu sở chỉ,
Chí thiện (1) tư vi cực.

(1) Chí thiện: Là tiêu chuẩn tuyệt đối về các sự lý ở đời.
Trong sách Đại học có câu: "Chỉ ư chí thiện" ý nói người học
vào bậc đại học phải đứng thật vững vào chỗ chí thiện.

Dịch nghĩa:

Thơ ngụ hứng ở quán Trung Tân (2)

Phía tây nam quán ấy có làng xóm,
Phía tây bắc quán ấy có sông ngòi.
Ở giữa có nửa mẫu vườn,
Vườn ở bên am Bạch Vân.
Bụi ngựa xe không bám vào được cái am ấy,
Hoa và trúc ở trong vườn chính tay tự trồng lấy.
Khi chống gậy, lê dép ra vườn chơi thì hương thơm của hoa bám vào gậy, dép
Khi nâng chén rượu để thưởng thức thì sắc hoa ánh vào chén rượu.
Khí đun nước để pha trà thì loài chim lánh khói,
Khi rửa nghiên mực, mực chảy xuống thì loài cá nuốt lấy.
Khi thích chí thì ngâm thơ tràn để tiêu khiển,
Lại nhờ có chén rượu nhắp cho hăng hái để đỡ sức già yếu.
Người ta khéo léo mà mình lại vụng về,
Biết đâu vụng về ấy lại là một đức tốt!
Ta khờ dại mà người thì xảo quyệt,
Biết đâu lòng xảo quyệt ấy lại là một cái hại lớn!
Khi tĩnh, suy lẽ tạo hoá,
Lúc nhàn, ngẫm việc xưa nay.
Không gì hiểm bằng đường đời,
Nếu không biết cắt bỏ đi thì toàn là chông gai cả.
Không gì nguy hiểm bằng lòng người,
Nếu không biết giữ gìn mà buông phóng ra thì hoá thành
quỷ quái cả.
Vì vậy, người quân tử phải tìm nơi đứng cho vững,
Lấy điều "chí thiện" làm tiêu chuẩn tuyệt đối.

(2) Quán Trung Tân: do Nguyễn Bỉnh Khiêm, khi về ở ẩn tại
quê nhà, đã cùng các vị bô lão dựng lên, vừa là nơi "thắng địa"
(vùng đất đẹp hơn cả), vừa là nơi nghỉ ngơi cho những người
qua đường. Quán Trung Tân đã trở thành đê tài quen thuộc
trong thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm.


Nguồn: Lý Tế Xuyên, Vũ Quỳnh, Kiều Phú, Lê Thánh Tông, Ngô Chi Lan,
Nguyễn Bỉnh Khiêm
, Nxb Văn Nghệ, TP HCM,1998
15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Ngô Lập Chi

Sông ngòi vòng tây bắc,
Làng xóm bọc tây nam.
Giữa có nửa mẫu vườn,
Vườn ở bên Vân am.
Xe ngưa bụi không đến,
Hoa, trúc tay tự trồng.
Gậy, dép bén mùi hoa,
Chén, cốc ánh sắc hồng.
Rửa nghiên, cá nuốt mực,
Pha trà, chim lánh khói.
Ngâm thơ thừa tiêu dao,
Uống rượu thêm khoan khoái.
Người xảo ta thì vụng,
Ấy vụng thế mà hay!
Ta vụng người thì xảo.
Ấy xảo thế mà gay!
Tính suy lẽ trời đất,
Nghiền ngẫm việc xưa nay:
Đường đời rất ghập ghềnh,
Chông gai cần phải cắt.
Lòng người rất hiểm nghèo,
Buông ra liền quái quắc.
Quân tử biết răn mình,
Chí thiện làm mẫu mực.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Phân tích bài thơ “Ngụ hứng ở quán Trung Tân”

Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học vĩ đại để lại nhiều sấm kỳ linh diệu, là nhà thơ lỗi lạc của dân tộc trong thế kỉ XVI. Thơ ông hàm súc, hàm chứa chất triết lí, giáo huấn, thương dân, lo đời, ghét chiến tranh.

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, Vĩnh Bảo. Hải Phòng. Học giỏi, đỗ Trạng nguyên. Ông có câu thơ: “Văn khôi tam thượng tiến tài sơ”, nghĩa là 3 lần đỗ đầu vần cười mình tài tầm thường. Làm quan dưới triều Mạc một thời rồi ông treo ấn từ quan, về quê dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, xây Nghinh Phong kiều, mở trường dạy học, có nhiều học trò thành tài nổi tiếng như Phùng Khắc Khoan (Trạng Bùng). Nguyễn Dữ... Ông đức trọng tài cao, được người đời kính ái gọi là Tuyết Giang phu tử. Lúc ông mất, vua nhà Mạc truy phong là Trình Quốc Công.

Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học vĩ đại để lại nhiều sấm kỳ linh diệu, là nhà thơ lỗi lạc của dân tộc trong thế kỉ XVI. Thơ ông hàm súc, hàm chứa chất triết lí, giáo huấn, thương dân, lo đời, ghét chiến tranh. Nhũng câu thơ viết về thiên nhiên rất tươi tắn, thú vị. Hiện còn lại gần 200 bài thơ Nôm trong “Bạch Vân quốc ngữ thi tập” và trên 1.000 bài thơ chữ Hán trong “Bạch Vân Am thi tập”.

Năm Nhâm Dần (1543) Nguyễn Bỉnh Khiêm thoái quan về sống giữa xóm làng quê hương. Mùa thu năm ấy, ông cùng các bô lão dựng quán Trung Tân làm chỗ ngồi chơi hóng gió và để khách qua đường nghỉ chân. Trong “Bài bia ở quán Trung Tân”. Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rõ:

Có người hỏi ta rằng: “Quán ấy đặt tên Trung Tân có nghĩa là gì?”. Ta trả lời rằng: “Trung có nghĩa là đứng giữa không chênh lệch, giữ vẹn được điều thiện là trung, không giữ được điều thiện thời không phải là trung vậy, tân có nghĩa là cái bến, biết chỗ đáng đậu là bến chính, không biết chỗ đáng đậu là bến mê vậy”...

Trạng Trình có chùm thơ nhiều bài lấy nhan đề Trung Tân ngụ hứng. Bài thơ thứ nhất này gồm 24 câu thơ theo thể ngụ ngôn trường thiên, lấy vần trắc (bắc-trắc- thực sắc...) làm âm vận chủ đạo. Bài thơ dịch của Ngô Lập Chi rất hay, vừa giữ được nguyên điệu thanh thoát, vừa sát nguyên tác, nhất là phép đối.

Hai câu đầu nói lên vị trí quán Trung Tân:

Sông ngòi vòng tây bắc
Làng xóm bọc tây nam
Quán ở giữa xóm làng đông vui, có sông ngòi uốn quanh, rất hữu tình. Trong Bài bia ở quán Trung Tân, tác giả cho biết rất cụ thể:... “bến Trung Tân, trông sang phía Đông nhìn Đông Hải, ngoảnh sang phía Tây nhìn Tây Kinh; bên Nam trông sang Ngư Khê, thì thấy Trung Am, Bích Động, cái kia cái nọ quanh dựa vào nhau: bên Bắc cúi nhìn sông Tuyết Giang, thì thấy chợ Hàn, bến Nguyệt bao bọc tả hữu; một con đường cái quan chạy dọc ở giữa, biết bao bánh xe, chân ngựa từ hàng ngàn dặm xa tấp nập đi qua chốn này”.

Ba câu tiếp theo nói về am Bạch Vân nơi đọc sách và dưỡng nhàn của ông Trạng sau khi đã thoát vòng danh lợi. Am ở bên nửa mẫu vườn, một nơi thanh tĩnh mà chủ nhân là một con người thanh bạch. Câu thơ “xe ngựa bụi không đến” mang tính hàm nghĩa sâu sắc.

Tiếp theo nhà thơ nói đến hoa, cá, chim, chuyện uống rượu và pha trà. Vừa tả cành, vừa tả tình. Cảnh vật được nhân hoá. Cá, chim như bầu bạn tri kỉ. Một tâm hồn thanh cao, ung dung tự tại chan hoà giữa thiên nhiên. Uống trà, uống rượu, ngâm thơ... lòng càng thêm “tiêu dao, khoan khoái”. Từng cặp câu song hành, đăng đối, ngôn ngữ hài hoà, giọng thơ khoan thai, đủng đỉnh. Trong nguyên tác và trong bản dịch đều thế:
Hoa, trúc tay tự giồng
Gây, dép bên mùi hoa
Chén, cốc ánh sắc hồng
Rửa nghiên, cá nuốt mực
Pha trà, chim lánh khói.
Ngâm thơ thừa tiêu dao,
Uống rượu thêm khoan khoái.
Nguyễn Bỉnh Khiêm có không ít vần thơ dung dị nói lên niềm vui dạt dào của kẻ sĩ thanh cao sống giữa thiên nhiên. Một cuộc đời thanh bạch mà sang trọng, ở cõi đời này mấy ai để có như Trạng Trình?
Ruộng hiềm đất áy, cày chưa chín,
Sách được câu thần dạ những ngong.
(Bài 111)
Trà sen, sáng đãi người đưa khát
Rượu thánh, hòm mời khách uổng say.
(Bài 140)
Vườn rau, sáng dạo, sương đầy dép
Bến cá, đêm trăng, bóng lọt thuyền.
(Ngụ ý - thơ dịch)
Giọng thơ biến hoá pha chút hóm hỉnh tự giễu mình khi ông nói về “vụng” và “xảo”. Cấu trúc vần thơ liên hoàn. Thơ mang nội dung đạo lý với cách nói thâm trầm, thấm thía. Khuyên mình hay nhắc khẽ ai?
Người xảo thì ta vụng.
Ấy vụng thế mà hay!
Ta vụng, người thì xảo.
Ấy xảo thế mà gay!
Vụng là vụng về, chất phác. Xảo là xảo quyệt, tham lam, dối trá. Vụng và xảo nói về 2 loại người trong xã hội xưa nay. Có bài thơ ông nói về khôn và dại trong thiên hạ:
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao...
Nơi vắng vẻ là sống với ruộng vườn, thoái vòng danh lợi. Chốn lao xao là chốn bon chen, giành giật. Cũng là hai cách sống đối lập của hai loại người trong xã hội, có người đáng trọng, có kẻ đáng khinh!

Giữa thế kỉ XIX, quan đại thần, nhà thơ tài tử Nguyễn Công Trứ cũng có viết về chuyện lợi danh ở đời và tâm thế kẻ sĩ:
Chen chúc lợi danh đà chán ngắt.
Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao!
Đám phồn hoa rót bước chân vào.
Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết.
(Thoát vòng danh lợi)
Tám câu còn lại nói về nguyên lý đạo đức, mọi tiêu chí về triết lí nhân sinh. Ông sống giữa thời loạn lạc, vì thế điều ông nói là cả một sự chiêm nghiệm lịch sử và xã hội: là bài học về đạo lí và nhân sinh: “Đường đời rất gập ghềnh... Lòng người rất hiểm nghèo”. Ý tưởng không có gì mới lạ, trước đó mấy nghìn năm, mấy trăm năm đã có người nói. Cái hay là ở hai câu cuối bài thơ:
Quân tử biết răn mình,
Chí thiện làm mẫu mực.
“Chí thiện” là tiêu chuẩn tuyệt đối về cái sự lí ở đời. Biết sống đẹp và hướng thiện cũng là chí thiện. Là quân tử, là kẻ sĩ thì phải là người chân chính. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống và ứng xử như vậy. Vì thế ông mới được ngợi ca là ông thầy của cả một thời đại.

Đền thờ Nguyễn Binh Khiêm đến nay vẫn còn có bức đại tự sơn son thiếp vàng với 4 chữ: “Như nhật trung thiên” - như mặt trời giữa bầu trời. Chủ tịch Hổ Chí Minh dạy cán bộ Đảng viên: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng”, phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Đó cũng là chí thiện vậy. Bài học về “chí thiện” vẫn nhiều mới mẻ đối với chúng ta ngày nay. Chí thiện là sống đẹp, là gương sáng muôn đời được ngợi ca.

tửu tận tình do tại
24.50
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Làng xóm quán Tây nam,
Tây bắc quán sông ngòi.
Giữa có nửa mẫu vườn,
Vườn bên Bạch Vân am.
Bụi ngựa xe không bám,
Hoa, trúc tự trồng lấy.
Ra vườn chơi chống gậy,
Hương hoa bám vào gậy,
Nâng chén rượu thưởng thức
Sắc hoa ánh chén rượu.
Pha trà chim lánh khói,
Rửa nghiên cá nuốt mực,
Thích chí ngâm thơ tràn
Nhờ có chén rượu nhắp
Hăng hái đỡ sức già.
Mình vụng, khéo người ta
Biết đâu vụng đức tốt!
Người xảo, khờ dại ta
Biết đâu lòng xảo quyệt
Là một cái hại lớn!
Khi tĩnh, suy tạo hoá,
Lúc nhàn, ngẫm xưa nay.
Không gì hiểm đường đời,
Nếu không biết cắt bỏ
Thì toàn là chông gai.
Không gì nguy hiểm bằng
Lòng người, không biết giữ
Buông phóng ra hoá thành
Quỷ quái cả mà thôi.
Vì vậy, người quân tử
Phải tìm nơi đứng vững,
Lấy điều “chí thiện” làm
Tiêu chuẩn tuyệt đối bám.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời