Nguyễn Thông (1827-1884). Ông tự Hy Phần, biệt hiệu Đôn Am, người làng Bình Thạnh, huyện Tân Thạnh, tỉnh Gia Định; nay là xã Phú Ngãi Trị, huyện Vàm Cỏ, tỉnh Long An.

Nguyễn Thông thời trai trẻ theo học trường của thầy Võ Trường Toản tại Gia Định. Năm 1849, ông thi đỗ cử nhân lúc 23 tuổi. Hai năm sau thi hội, vào đến trường ba nhưng vì quyển thi lấm mực nên bị đánh hỏng. Nhà nghèo, không thể đeo đuổi việc học, Nguyễn Thông đành phải nhận chức Huấn đạo ở huyện Phú Phong (An Giang). Năm 1856, nội các đề cử ông ra Huế dự việc biên soạn sách. Ba năm sau, thực dân Pháp chiếm lấy Gia Định, Nguyễn Thông xin vào nam tòng quân đánh giặc dưới quyền của Tôn Thất Hiệp. Năm 1862, triều đình nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp. Hưởng úng phong trào “tị địa” (không sống chung với giặc), ông về miền Tây giữ chức Đốc học Vĩnh Long, dưới quyền Phan Thanh Giản. Khi ba tỉnh này cũng bị mất (1867), Nguyễn Thông nhận chỉ ra Bình Thuận làm Án sát rồi Bố chánh tỉnh Quảng Ngãi. Ở những nơi ấy, ông cho lập nhiều trang trại, thu nạp dân Nam Kỳ ra đấy ngụ cư, vận động nhân dân địa phương khẩn hoang, làm thuỷ lợi, trồng cây v.v... và dốc sức diệt tệ nhũng lạm, cường hào.

Thấy Nguyễn Thông làm được nhiều việc, bọn xôi thịt, hủ lậu cấu kết nhau gièm pha ông. Cộng thêm ông bị tên Lê Doãn vu cáo; cả tin, triều đình ra lệnh cách chức, bắt giam và xử đánh roi ông. May mà nhờ bạn bè, nhân dân hết sức minh oan, ông mới được giảm tội... Năm 1873, do nhiều bệnh, Nguyễn Thông xin cáo quan về nghỉ ở Trại Núi (Bình Thuận), lập thi xã, mở trường dạy học. Năm 1876, ông ra Huế làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, rồi lại về Bình thuận giữ chức Phó sứ Điền nông kiêm Đốc học. Bấy giờ bệnh của ông ngày càng nặng, bởi những trận đòn tra khảo năm xưa cùng tâm trạng luôn lo âu vì nạn dân, nạn nước... nên vào năm 1878, Nguyễn Thông xin nghỉ dài hạn tại Phan Thiết. Dù vậy, thường ngày ông vẫn cùng quan lại địa phương sốt sắng giải quyết việc cho dân. Nơi đây ông lập một nhà học lấy tên Ngoạ Du Sào (Tổ nằm chơi). Năm 1881, Nguyễn Thông được lệnh ra Bình Thuận đảm đương trọng trách cũ và ông đã qua đời tại đấy (ngày 7/7/1884), hưởng dương 57 tuổi.

Tác phẩm của ông gồm: Ngoạ Du Sào thi tập, Ngoạ Du sào văn tập, Kỳ xuyên công độc văn sao, Việt sử cương giám khảo lược, Nhân sự kim giám.

Tất cả cho thấy Nguyễn Thông không những là nhà thơ mà còn là nhà văn hoá, một người yêu nước, yêu dân tiêu biểu của Nam Bộ ở nửa thế kỷ XIX.

*

Từ những gì vừa kể phần nào giúp ta hình dung, Nguyễn Thông sống vào thời kỳ phong kiến Việt Nam có nhiều biến cố.Nổi bật là cuộc đối đầu giữa dân tộc ta với thực dân bên ngoài. Là cuộc sống quá đổi bần hàn của người dân, vì giặc ngoại xâm, thiên tai gây mất mùa triền miên; vì nạn sưu thuế cao và bọn tham quan cường hào khiến loạn lạc xảy ra nhiều nơi (các cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Dương, Lê Văn Khôi, Nông Văn Vân, Lê Duy Cự v.v..)

Trước thực tại rối ren đó, một số quan lại yêu nước như Nguyễn Tư Giản, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Thông... cùng những trí thức nặng lòng với non sông như Hồ Huấn Nghiệp, Nguyễn Hữu Huân, Phan văn Trị, Học Lạc v.v... sinh lòng ngao ngán bởi một triều đình chỉ giỏi nghi kỵ, bóc lột, đàn áp... nhưng lại tỏ ra hèn nhát, bất lực, không đoàn kết được dân tộc... Cho nên, mặc dù có nhiều cuộc kháng chiến anh dũng của những Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân... và một số trung thần dốc sức chống đỡ như Tôn Thất Hiệp, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu... Nhưng cuối cùng, đất nước ta cũng mất dần vào tay ngoại xâm.

Có thể nói đa phần, những áng thơ văn của Nguyễn Thông đều bộc lộ nhiều nỗi đau xót này. Xin trích một ít để ta cùng cảm thông những gì luôn nung nấu nơi tim ông:

...Quê nhà khói lủa mù xông
Biết bao cay đắng trong lòng bà con...
(Ngày tết năm Đinh Mão 1867)
Mịt mù khói lửa trời Nam
Biết anh đâu nhỉ để bàn nỗi riêng?
(Gửi Hồ Huấn Nghiệp)
Chiến địa trời Nam máu hãy tanh
Mười năm yên ngựa nhớ Mai Đình
Ai hay mường mán nơi mưa khói
Có khách giang hồ thích dạo quanh
(Ở xứ Bình Hoà, gặp Hà Lăng)
Quặn thắt hơn vì triều đình cứ mãi nhân nhượng. Nên phía Nam thực dân mặc sức thao túng, hoành hành. Còn phía Bắc, thêm nhiều cuộc nổi dậy:

...Quân ra Bắc, lương đem qua núi
Tướng Nam về ngại nói việc binh
Ngâm thơ ngoài ải một mình,
Nằm nghe mưa nhỏ xung quanh mái thềm!
(Đọc “Thu hoài” của Tùng Đường)
Bên cạnh, thiên tai cùng sưu thuế cao càng đẩy dân tình thêm khốn đốn, lầm than:
Khe lạnh, mưa tràn, nước lụt lui
Khôn tìm bờ bến – nước phăng trôi
Ruộng bồi mép biển thành ao hết,
Vườn quế chân non hoá bãi bồi!
(Ghi cảnh Lệ Giang, Giản Chi dịch)
...Thời tiết thường thay đổi luôn
Mùa màng được mất khó lường đón ra
Huyện quan dù có quen ta
Thuế sưu nếu thiếu, chẳng tha chút nào
(Trích Trồng trọt, Lê Thước & Phạm Khắc Khoan dịch)
Song song những tình cảm thâm sâu dành cho dân, cho nước. Ở Nguyễn Thông ta còn nhận ra một trái tim bình dị, đôn hậu, nhiều khăng khít với xóm làng. Sau đây là một đoạn thơ ông làm khi rời nhà đi “tị địa”:

...Người thì khuyên gắng uống ăn
Người thì bịn rịn nói toàn nhớ thương
Rượu đưa gượng uống vị lòng
Đầm đìa đôi má ròng ròng lệ sa...
(Thuật mối cảm hoài)
Trái tim ấy cũng không hề thiếu nghĩa tình đối với người vợ trẻ mà ông phải bỏ lại, để rảnh tay lo việc quân, việc nước:

Màn the mộng quyện lệ đầm
Tóc xanh ai để lược trâm biếng cài
Sóng xuân e cánh đào trôi
Chi đôi trăng sáng, lẻ loi thuyền về
(Đưa vợ Ngô Vũ Khanh về Nam, Thanh Xuân dịch)
Nặng lòng với cả nấm mồ quạnh quẽ của người em còn ở nơi đất khách:

Nạn giặc bao giờ hết,
Nấm mồ ngày cách xa
Một chung trên nhúm cỏ,
Dòng lệ lúc chiều tà...
(Từ biệt mộ người em, Phạm Thiều dịch)
Nguyễn Thông cũng làm nhiều thơ nói về bằng hữu. Nhất là đối với những người làm được nhiều việc cho nước, cho dân mà bị gièm pha hoặc ở nơi thường khi mịt mù khói lửa:

...Bị tạm trích, danh kia vẫn chói
Tiếc mình chưa vạch thói gièm pha
Bá Lăng ông có đi qua
Làm thinh chớ nói mình là cựu quan
(Mừng ông Trần Tử Mẫn)
Hùm beo từng ở từng ở Ba Phan
Mịt mù đường tới miền Nam xa vời
Chiến tranh nên vắng bóng người,
Lại thêm xâu thuế tháng ngày mòn hao
Dân tình dân tỉnh tính sao,
Gió xuân gởi tới khi nào giặc yên?
Nhớ nhau, ngày tới trăng lên
Hai nơi ta, bạn nỗi niềm giống nhau
(Phụng hoạ “Thuật hoài” của Tuần phủ họ Bùi)
Cho những ai vì “nghĩa lớn” phải vong thân. Như các bài viết về Phan văn Đạt, Trương Định, Hồ Huân Nghiệp, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Duy v.v... Xin dẫn 2 bài:

Gió tây thổi một đêm lấp ngõ
Trại đóng quân, đại thọ đổ rồi
Trí mưu đầy đất chôn vùi,
Ba quân sùi sụt khóc người cựu ân
Nhận dấu áo mà chôn tướng kĩnh
Thịt xương tan chính khí còn đây
Mỗi năm bạn cũ nhớ ngày,
Thăm mồ rưới rượu, nhớ ai ngậm ngùi
(Điếu ông Nguyễn Duy)
Gió táp, mưa sa, máu chiến trường
Ngậm ngùi năm ấy, cảnh thê lương
Đành rằng một tướng theo ông Phó [1]
Ai ngỡ bè tiên có bác Trương [2]
Lửa địch thiêu cây trơ nhánh trụi
Sấm xuân dục trúc nẩy chồi non
Lo đời, thầy Giả [3] tơ vò khúc
Ngoảnh cổ bao lần phía cố hương
(Kính hoạ bài thơ “Gia định cố thành”, Phạm Triều dịch)
Và ông cũng không quên cảm thán cho những dân lành vô tội,phải bỏ mình vì lằn tên, mũi đạn:

Trải năm tháng bao lâu ai rõ
Mà mồ hoang bãi cỏ gần xa
Ngôi thì đất lở phơi ra,
Ngôi thành bụi rậm, ai mà ngó coi...
Cho cả những người còn sống nhưng kể như đã chết, vì bọn tham quan ô lại cứ bòn rút:
Những nắm xương tuy nay yên chỗ
Còn kiếp người đau khổ ai thương?
Tham quan ô lại một phường
Nuôi thân bằng máu, bằng xương dân lành
Tay dệt cửi mà mình rét cóng
Chân đi cày mà bụng đói dài
Dẫu còn thoi thóp chút hơi
Xem ra chẳng khác bọn người cửu nguyên.
(Nghĩa địa làm phú, Hoàng Tạo dịch)
Vâng. Như tôi đã viết ở trên, nhân dân ta thời bấy giờ chịu lắm tai ách. Chỉ tính riêng điều vừa nói thôi, qua thơ Nguyễn Thông, cũng đủ cho ta nhói tận đáy lòng.Đủ biết người xưa cho rằng quan tham cùng chính sách hà khắc, hãm hại người còn hơn cọp dữ; đâu phải là lời nói quá...

Ngẫm, càng thêm kính yêu ông, tuy thân làm quan ở nơi nhiều nghi kỵ, độc đoán, chính kiến, bè phái... vậy mà Nguyễn Thông dám thốt lên những lời lẽ tố cáo gay gắt như thế thật không dễ chút nào.

Xin dẫn thêm đôi dòng để cùng chia sẻ một tâm hồn thanh cao, không bao giờ chịu lùi bước trước cái xấu:

Đang độ thu về qua bến sông
Dưới đê ruộng nếp đã đơm bông
Dân cày vốn sợ quan đòi thuế,
Báo trước họ tên,tránh bận lòng
(Đi Tư Châu, ghé nhà ông Nguyễn Tử Mỹ)
Hay gửi gắm tình ý qua bài Thả chim đa đa:

...Cành Nam nay thả mày về lại
Bạn cũ gà rừng mặc sức chơi
Bên suối uống ăn nên cẩn thận,
Chút thân đừng để lọt tay ai!
Chính từ tấm lòng “khổ cùng cái khổ của dân”, “làm việc gì cũng phải hợp lòng dân”... cho nên khi vua Tự Đức cầu lời nói thẳng, ông mạnh dạn điều trần 4 việc nội trị: “Chọn nhân tài bổ làm quan, cải tiến việc võ lược, Sửa đổi thuế đất & thổ sản, chú trọng điều khoan hậu.”

Cảm nhận, bản tấu này tính đến nay đã ngoài trăm năm, song vẫn còn nhiều giá trị. Tiếc là do khuôn khổ bài viết, tôi chỉ xin trích một điều cơ bản nhất. Biết đâu nó sẽ gợi được ít nhiều những gì cần làm cho công cuộc cải cách, đổi mới của ta hôm nay:

Chọn nhân tài bổ làm quan

Thời xưa chọn kẻ sĩ, phải xem xét rõ ràng,chắc chắn rồi mới bổ làm quan. Vì chức quan mà chọn người, không vì người mà chọn chức quan... Thế mà nay những học trò sơ học non nớt, những con nhà quyền quí vênh váo, những bọn lại điển tầm thường; không xét hạnh kiểm, không lường tài năng, chỉ căn cứ vào phẩm hàm của cha ông mà giao ngay cho trách vụ trọng yếu. Làm quan không có đủ tư cách mà cho giữ chức điều khiển, không trong sạch mà cho giữ quyền tài chánh, không giỏi phán đoán mà cho giữ việc can răn, quen thói nể nang mà cho làm việc điều bổ quan chức.

Như thế muốn quan lại xứng chức, nhân dân thoả lòng &chính sự mở mang, phỏng có được không?

Gần đây, có tệ bỏ chức nghiệp để đi cầu cạnh thanh danh, kết nhiều bè bạn để nhờ đề cử. Đã là thân nhơ bẩn mà muốn danh được đồn vang... Thần trộm thấy, thói cầu cạnh thịnh hành thì đạo liêm sỉ bị tổn thất, phép lựa chọn càng thả lỏng thì quan lại kém cỏi...

Từ nay xin, mỗi lần chức vụ có khuyết thì Bộ Lại phải xét trước những người đáng được điều bổ. Phẩm hàm ngang nhau thì xét hạnh kiểm. Hạnh kiểm ngang nhau thì xét tài năng. Tài năng ngang nhau thì xét công trạng... Sau khi đã nhận chức, nếu có người nào làm công việc không chạy hoặc làm điều tham ô, thì Bộ ấy phải chịu trách nhiệm.

Có như thế, ở triều đình không có người bất tài, quan lại không có người lạm chức...
Buồn sao những lời lẽ tâm huyết đó,cũng giống như nhiều đề nghị canh tân khác của Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn Tư Giản, Bùi Viện... đều không được nhà Nguyễn nghe theo. Hơn thế nữa chính vì tấm lòng này, Nguyễn Thông lâm phải nhiều phen khốn đốn bởi bọn xôi thịt, hủ lậu, dốt nát... Lời vu cáo của tên Lê Doãn khiến ông bị giáng chức, bị phạt roi đến nỗi phải lâm bệnh thổ huyết là một minh chứng!

Trước khi kết bài viết, tôi cho rằng cái độc đáo, cái thiết thực nhất mà ông đã để lại cho đời; đấy là việc tổ chức, vận động đưa dân đi khai hoang, làm thuỷ lợi, trồng cây... ở Quảng Ngãi và Bình Thuận. Điều này càng tỏ rõ Nguyễn Thông là một nhà nho có đầu óc thực tiễn, tiến bộ, có hiểu biết, yêu dân và gần dân hơn so với nhiều nho sĩ cùng thời.

Do giá trị này, tôi xin trích một bài trong chùm thơ mang ý nghĩa vận động “khuyến nông” của ông:

Khuyên riêng nghề nông

Cấy lúa thì cỏ phải cào
Cỏ mà lên mạnh, lúa nào tốt tươi
Ruộng cạn tát nước kịp thời
Nước mà khôn cạn, ruộng đời nào nên
Việc nông ta phải cần chuyên,
Làm ăn sinh sống trước tiên không chờ
Mẹ cha ai dễ nuôi cho
Vợ con mong mỏi nương nhờ ta nay
Thờ trên đỡ dưới khó thay,
Thuế sưu cũng ở ruộng này mà ra
Mấy lời khuyên bạn nông ta,
Quyết tâm làm lụng chớ la nhọc nhằn
(Lê Thước, Phạm khắc Khoan dịch)
Nhìn chung, do sinh trưởng trong một gia đình nhà nho nghèo, lại sớm sống gần gũi những người dân cần cù, lam lũ, thuần phác. Thêm nữa, nhờ Nguyễn Thông có năng khiếu thơ văn, có vốn học thức, được đi nhiều và nhạy cảm trước những vấn đề chính trị, xã hội... Nên hầu hết trước tác của ông đều thiên về tả thực, giàu chất trữ tình, mang tính tố cáo cao. Nhờ vậy mà ta dễ dàng bắt gặp cái đẹp của những ý tứ, ngôn từ tinh tế, đậm đà tình cảm cao cả, không sa đà viễn vông hay sáo rỗng...

Tuy đôi lúc trong thơ văn ông, cũng không tránh khỏi nỗi buồn hiu hắt của một nhà nho cảm thấy bất lực trước vận mệnh tồn vong của non sông, của dân tộc.

Nhưng tôi đoan quyết với nhân cách cùng tâm tư ấy chẳng bao giờ xa cũ; vẫn sẽ luôn là tấm gương, là ánh đuốc cho mỗi người hôm nay soi rọi lại mình, để rồi biết sống tốt hơn nữa cho đất nước, cho đồng bào...


Bùi Thuỵ Đào Nguyên

[1] Dùng điển Phó Duyệt cưỡi sao lên trời. Đây chỉ việc Nguyễn Tri Phương tử tiết.
[2] Dùng điển Trương Khiên đời Hán đi sứ Tây Vực. Đây chỉ các quan Khâm sai vào Gia Định.
[3] Tức Thái phó Giả Nghị, người đời Hán. Tất cả đều có lòng lo giúp nước.

Tài liệu tham khảo:
- Nguyễn Thông, con người & tác phẩm, Ca Văn Thỉnh, Bảo Định Giang biên soạn, NXB TP HCM, 1984
- Từ điển văn học tập 2, NXB Khoa học Xã hội, 1984
- Từ điển nhân vật lich sử Việt Nam, Nguyễn Quyết Thắng & Nguyễn Bá Thế, NXB Khoa học Xã hội, 1992