4294.21
Nước: Việt Nam (Hiện đại)
216 bài thơ
39 bình luận
172 người thích
Tạo ngày 02/06/2004 00:57 bởi Vanachi, đã sửa 3 lần, lần cuối ngày 23/08/2010 19:50 bởi Vanachi
Hàn Mặc Tử (22/9/1912 - 11/11/1940) tên thật Nguyễn Trọng Trí, tên thánh là Phêrô Phanxicô, còn có các bút danh Lệ Thanh, Phong Trần, Minh Duệ Thị. Ông sinh ở làng Lệ Mỹ, huyện Đồng Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay là Quảng Bình) trong một gia đình công giáo nghèo, cha mất sớm. Thuở nhỏ sống và học tiểu học ở Quy Nhơn, học trung học ở Huế, sau làm ở Sở Đạc Điền, bị thôi việc vì đau ốm. Năm 1934-1935, ông theo Thúc Tề vào Sài Gòn làm báo (viết báo Công luận, phụ trách trang văn báo Sài Gòn), về sau lại trở ra Quy Nhơn. Năm 1936, bị mắc bệnh phong, phải vào nhà thương Quy Nhơn và qua đời ở đó.

Hàn Mặc Tử làm thơ sớm, 14 tuổi đã làm thơ Đường luật đăng báo với bút danh Minh Duệ Thị. Năm 1930, ông đoạt giải nhất trong cuộc thi thơ do một thi xã tổ chức. Cùng Chế Lan Viên lập Trường thơ Loạn, tuyên…

 

Cẩm châu duyên

Lệ Thanh thi tập

Thượng thanh khí

Xuân như ý

Gái quê (1936)

Đau thương (Thơ điên, 1937)

Chơi giữa mùa trăng (1941)

Tuyển tập chung

 

 

Trang trong tổng số 4 trang (39 bình luận)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Đôi nét về hai tượng chân dung của Hàn Mặc Tử

Phạm Xuân Tuyển


Đầu năm 1973, ông Phạm Minh Công – Giám đốc trường Nguyễn Bá Tòng – Gia Định (nay là trường Hoàng Hoa Thám - quận Bình Thạnh - TP Hồ Chí Minh) đã cho đắp đặt trong công viên của nhà trường một tượng bán thân chân dung nhà thơ Hàn Mặc Tử (HMT). Trải qua gần một phần tư thế kỷ, nay tượng HMT vẫn còn được lưu giữ, đặt trang trọng ở một công viên ở quận Bình Thạnh –TP. HCM.

Được sự giúp đỡ nhiệt tình của chủ nhân tượng HMT, kẻ viết bài này "sung sướng" đọc được những dòng từ thủ bút. Cảm nghĩ của người đắp tượng thi sĩ Hàn Mặc Tử... Tượng HMT có di ảnh. Ông mất đi giữa tuổi thanh xuân, dù căn bệnh nan y cũng không làm mất đi những nét tinh anh như mắt sáng, trán rộng, hình dung tìêm ẩn một bộ óc nghệ thuật siêu việt... Dù có hai ba di ảnh để trước mặt nhưng tôi hằng nương theo tư tưởng tâm phục tài nghệ của ông và tôi quyết định "Đắp bộ" phải nhanh nhạy mà thật hơn hết... Thi sĩ, xin phù hộ cho những người hằng ngưỡng mộ ông...(ký tên) Thi, Hoạ sĩ Vĩ Nhuế Lê Đằng Giao".

Ngày chủ nhật 17-8-1997, tôi vô cùng cảm động khi được tiếp kiến cả người thiết kế lẫn người thực hiện công viên và tượng HMT năm 1973. Trong hơn một giờ tìm hiểu, tôi được biết vị giám đốc trường Nguyễn Bá Tòng năm xưa cũng chính là chủ nhân công viên có tượng HMT hiện nay và cũng là người thường giúp đỡ những người đồng bệnh với HMT ở các trại phong gần xa trong nước. Và tôi cũng được biết thêm "tiểu sử nghề nghiệp" của người đắp tượng HMT: Cụ sinh năm 1920 tại Vĩ Nhuế- phủ Nghĩa Hưng - tỉnh Nam Định; tốt nghiệp trường Mỹ thuật Gia Định năm 1958 và tốt nghiệp cử nhân văn chương Đại học Sài Gòn 1973; làm giáo sư, giảng viên môn phỏng hoạ, trang trí, lý luận mỹ thuật từ năm 1962 đến năm 1978 của các trường quốc gia cao đẳng mỹ thuật, trang trí mỹ thuật Gia Định, 2 trường Nguyễn Bá Tòng I và II. Taberd, Pétrus Ký, Nguyễn Tường Tộ... và từng tham gia triển lãm chung các năm 1965 – 1966...

Ở Bình Định – Quê hương của Hàn Mặc Tử, những tháng cuối năm 1994, Hội Văn học nghệ thuật và ban giám dốc khu điều trị Phong Quy Hoà đã mời hoạ sĩ điêu khắc gia Âu Như Thuỵ của Hội nghệ sĩ tạo hình TP. Hồ Chí Minh làm tượng Nhà thơ Hàn Mặc Tử để đặt tại phòng lưu niệm (tức nơi phòng thi sĩ trút hơi thở cuối cùng) ở Quy Hoà nhân 54 năm ngày mất của ông.

Sau lễ khánh thành tượng Hàn Mặc Tử tại Quy Hoà 3 ngày. Họ sĩ Âu Như Thuỵ đã tử nại tại đèo cả ngày 14 tháng 11 năm 1994, hưởng dương 57 tuổi. Được biết nhà làm tượng xấu số cũng đã tốt nghiệp tại trường Mỹ thuật Gia Định và lúc mất là hội viên Hội nghệ sĩ tạo hình TP.HCM, tuy gia đình đang cư trú ở Đà Lạt.

Tôi tưởng ở đây cũng tiện ghi lại những câu trả lời rất đáng ghi nhớ của Âu Như thuỵ, khi được ông Trần Xuân Toàn, giảng viên khoa Ngữ văn trường Đai học sư phạm Quy Nhơn phỏng vấn: "Anh dựa vào đâu để tạc tượng Hàn?" – "vào tấm hình duy nhất 4x6 mà bệnh viện cung cấp và những bức vẽ về Hàn, vào phác thảo của Tạ Ty, nhưng cái chính vẫn là cái hồn nghệ sĩ của tôi đã cộng cảm với hồn thơ đau thương của Hàn, tay cầm quyển vở và cây viết, đang ngồi đăm chiêu, sáng tạo một tượng cao 1,5 – 1,8m. Tôi mê Hàn từ nhỏ, đây là dịp tôi thể hiện tình yêu đó với Hàn, với cả bệnh viện ngày nào Hàn chữa bệnh và với Quy Nhơn này!" (Theo báo tuổi trẻ thứ ba ngày 15 tháng 11 năm 1994).

Xin kính thắp nén hương 57 năm ngày mất của Hàn Mặc Tử. Và một nén hương cho người đắp tượng Hàn thi sĩ là hoạ sĩ quá cố họ Âu nhân lễ đoạn tang 3 năm cùng lời chúc sống thượng thọ bát tuần cho cụ Vỹ Nhuế.


(Bình Định, 1997. Ngày 8 tháng 11)
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Ảnh đại diện

Hàn Mặc Tử và những nhà thơ trường Quốc Học Quy Nhơn

Phạm Hổ


Nhân dịp kỷ niệm 84 năm ngày sinh của nhà thơ (22 - 9 – 1912 – 1996) và kỷ niệm 70 năm ngày ra đời Trường Quốc học Quy Nhơn (15-9-1926 – 1996) tôi xin có đôi điều muốn trao đổi với bạn đọc về Hàn Mặc Tử và những nhà thơ cùng học trường Quốc học Quy Nhơn trước kia với ông.
Theo tôi, thơ Hàn Mặc Tử gồm có ba mảng lớn.
-Mảng viết cho các thể thơ cũ (chủ yếu là thơ Đường) về đất nước, truyền thống, tình bạn… như Cửa sổ đêm khuya, Buồn thu, Cây đàn nguyệt, Gái ở chùa v.v…
- Mảng viết theo thể thơ mới về cuộc sống hàng ngày, những cô gái quê, những người lao động,.. như: Em lấy chồng, Mùa xuân chín, Tình quê, Bẽn lẽn, Đây thôn Vĩ Dạ v.v…
- Mảng viết về những nỗi đau khổ đến tột cùng của tác giả từ khi lâm bệnh hiểm nghèo và tình yêu bị dang dở như: Những giọt lệ, Rụng rời, Trường Tương tư, Hồn là ai? Biển hồn ta, Phan Thiết! Phan Thiết v.v…
Đọc lại nhiều bài trong ba mảng thơ lớn trên đây tôi bỗng cảm nhận thêm được vài điều mới lạ.
Trước đây, đọc bài Em lấy chồng, tôi cũng thấy nó hay hay:

Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi hết ước mơ
Tôi sẽ đi tìm mõm đá trắng
Ngồi lên để thả cái hồn thơ

Nhưng lần này, khi tôi tự đặt ra câu hỏi: cái hồn thơ của anh hình dáng nó ra sao? Thả lên trời (như diều) hay thả xuống nước (như thuyền)? Tôi bỗng bắt gặp được tâm hồn của tác giả… Đây là một phản ứng về một tâm hồn. Thả vậy thôi chứ rồi anh lại kéo xuống, với lên…anh làm sao bỏ làm thơ được!
Cũng như trong câu thơ thiên tài này:

Áo em trắng quá nhìn không ra

Nếu chúng ta cùng hỏi vặn: nhìn không ra ai? Chúng ta sẽ có thể trả lời ngay là
Nhìn không ra em, nhưng ngắm kỹ hơn một chút nữa, chúng ta lại thấy nhìn ra cả anh nữa. Vì em đẹp quá làm anh sững sốt, bàng hoàng, và anh như không còn là anh trước đó. Câu thơ cũng giúp ta hiểu sâu hơn thế nào là cái đẹp. Cái đẹp thường không bao giờ lộ hết ra, mà luôn cất giữ trong mình một cái gì bí ẩn …
Hoặc như hai câu thơ kết thúc bài Mùa xuân chín:

Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?

Lần này đọc lại tôi mới chợt thấy: Chính nhờ sự để lửng lơ không rõ Chị ấy là ai, gánh thóc đi đâu ? làm gì? Mà dư âm của bài thơ cứ vang lên nhẹ nhàng rồi toả lan ra rất xa, rất xa…
Hình ảnh thơ thoát đọc lên nghe rất đẹp nhưng đọc lại thấy rất buồn, buồn một nỗi mênh mông như dòng sông trắng, như bầu trời nắng chang chang. Đọc đi đọc lại thấy muốn chảy nước mắt. Mà vẫn không hiểu hết vì sao…
Thơ hay thường dễ giúp người đọc hiểu được tác giả. Hàn Mặc Tử có một tâm hồn trong sáng, hồn nhiên đến lạ lùng. Không phải chỉ hồn nhiên lúc còn trẻ mà về cuối đời trong hoàn cảnh bệnh hoạn ngặt nghèo, tình duyên vỡ lỡ, anh vẫn thế Đây thôn Vĩ Dạ! được viết khoảng một năm trước ngày anh mất. Còn bài trăng vàng trăng ngọc là anh viết trong thời gian anh phải sống lần lũi trong căn lều rách nát ở giữa xóm Động, cái nóng vây quanh.
Hàn Mặc Tử hồn nhiên nhưng lại là người say mê sâu sắc. Anh có thể yêu một người chỉ thấy trong ảnh (Ngọc Sương) hoặc chưa bao giờ gặp mặt (Thương Thương) yêu đến mức viết không biết bao nhiêu là thơ với nàng…Song người mà Hàn Mặc Tử yêu nhất, say đắm nhất là Mộng Cầm. Mai Đình thì nhà thơ cũng quý cũng thương nhưng có lẽ chỉ đến vậy. Tôi có chú ý một chi tiết này: Sau khi tình yêu giữa hai người (Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm ) bị tan vỡ, Hàn Mặc Tử cũng có lúc nhắc đến Mộng Cầm nhưng dưới một cái tên khác. Mặc dù tên gì thì nó cũng mang âm hưởng hai tiếng Mộng Cầm nghĩa là một chữ dấu nặng và một chữ dấu huyền. Phượng Trì, Lệ Kiều v,v,.. Như thế có thể xem như con người của Mộng Cầm đã nhập vào hồn anh còn gì nữa!
Say mê trong tình yêu, say mê trong sáng tác, ban đầu hai yếu tố này đã cùng nhau hổ trợ cho anh trong cuộc sống. Nhưng từ khi anh gặp phải tai biến về cả hai phía thì cả hai yếu tố đó tưởng như có thể đối lập nhau. Thế mà Hàn Mặc Tử đã có đủ nghị lực để giải quyết tốt. Anh lấy cái đau khổ để làm chính cái chỗ dựa cho thơ anh Anh vẫn làm thơ và nhờ vậy mà chỉ trong 6 năm đã để lại một sự nghiệp lớn.
Là một con người, đau khổ quá, Hàn Mặc Tử cũng khóc, nhưng khóc mà không cho ai biết.
Khóc một chắc (một mình) có ai vô mà biết! hoặc khóc cho chính mình nghe:

Hãy mường tượng một người thơ đang sống
Trong im lìm, lẻ ló, trong dãy đông
Mà đêm nghe tiếng khóc ở đáy lòng

Trong suốt bao nhiêu năm đau khổ ê chề, anh không bao giờ có ý nghĩ tự tử. Anh Yến Lan đã quả quyết nói như vậy. Và câu thơ này đã chứng minh câu nói của Yến Lan là đúng:
Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi !

Bao giờ tôi chết đi thì rõ ràng là một cái chết bình thường như mọi người. Có người hỏi. Hàn Mặc Tử tìm đâu ra sức mạnh để vượt qua những nỗi đau?
Có thể câu thơ tiếp theo câu thơ trên, đã phần nào trả lời được chăng ?

Bao giờ tôi hết được yêu vì

Chắc là đúng như vậy! Chính sự yêu vì của tất cả những con người mà Hàn Mặc Tử đã gặp, đã sống đã có một sức an ủi, động viên lớn đối với anh.
Nhưng bên cạnh những con người, qua thơ Hàn Mặc Tử tôi còn thấy có một yếu tố nữa: Thiên nhiên; Vũ trụ, trăng sao, mây, gió… Với anh, con người và vũ trụ luôn sống bên nhau, vui buồn cùng chia sẻ! “Cho em buồn, Trời đất úa sương khuya” và không một nhà thơ nào trên thế giới viết nhiều về trăng, lạ lùng về trăng như anh.
Cuối cùng là Đạo của anh. Điều ấy không thể khác. Có điều là trong thơ Hàn Mặc Tử tôi thấy có đủ cả Đức Chúa trời và Phật, Thiên Đảng và Niết bản Đức Mẹ Maria và bà Tây Vương Mẫu các thiên thần và các nhân vật Liêu Trai v.v…
Có thể nói tâm hồn của Hàn Mặc Tử phóng khoáng đến mức lạ kỳ.
Trong ba mảng thơ lớn của Hàn Mặc Tử, hình như từ trước đến nay, hai mảng trên được nhiều người nhắc đến, thuộc hơn. Nhưng đọc kỹ lần này, tôi thấy mảng thơ thứ ba của nhà thơ cũng có một vị trí đặc biệt quan trọng.
Qua nhiều bài thơ trong mảng đó, Hàn Mặc Tử là một trong những bài thơ nói về nỗi đau của con người sâu sắc nhất.
Trong những bài thơ ấy, nỗi đau về thể xác và nỗi đau về tình cảm (tâm hồn) đều được Hàn Mặc Tử miêu tả đến:

Thịt da tôi, sượng sần và tê điếng
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên

Khá rõ ràng là qua các bài thơ đau, tôi thấy Hàn Mặc Tử đau khổ về tình cảm tâm hồn hơn là về thể xác. Điều đó thật dễ hiểu. Tôi còn chú ý là tên các bài thơ, trong các bài thơ rất nhiều chữ hồn, xuất hiện. Tôi có cảm giác như trong những cơn đau xé lòng, anh như thấy cái hồn của anh đã tách ra cho anh thấy được những nỗi đau của mình rõ hơn. Có lẽ vì thế mà trong Hồn ai là ? anh đã kết thúc bằng hai câu

Dẫu hồn đi ròng rã đêm nay
Hồn mệt lả còn tôi thì chết giấc

Chết giấc (phần thể xác) thì không còn cảm thấy gì nữa. Nhưng mệt lả (phần tâm hồn) thì vẫn tiếp tục cảm giác, tiếp tục đau.
Và giúp cho con người thấy được, hiểu được thế nào là nỗi đau, nhắc con người đừng có bao giờ gây nên nỗi đau khổ cho người khác nhất là về mặt tâm hồn, đó cũng là một thu hoạch mà tôi rất trân trọng trong lần đôc này, về thơ Hàn Mặc Tử, cuộc đời Hàn Mặc Tử…
Cuối cùng theo sự đánh giá của Chế Lan Viên và nhiều người khác. Hàn Mặc Tử là ngôi sao sáng nhất trong các ngôi sao của trường thơ Mới Bình Định. Nhóm Tú Linh; Long, Ly, Quy, Phượng đã tôn anh làm rồng (Long), anh Yến Lan là lân (Ly), anh Quách Tấn là rùa (Quy) và Chế Lan Viên là Phượng (Phụng), nhóm thơ này đã có những sinh hoạt đặc biệt: cùng rủ nhau ra ngủ biển, đọc thơ và trao đổi về thơ, đến thăm lều Hàn Mặc Tử ở xóm Động và bàn nhau về tên một tập thơ sắp ra của nhóm v.v…Cạnh đó còn có các nhà thơ khác như: Phạm Văn Ký, Xuân Diệu, Xuân Sanh (trước cách mạng) và Nguyễn Viết Lãm, Vương Linh, Giang Nam, Phạm Hổ (trong cách mạng kháng chiến). Cũng hay là Phạm Văn Ký đề tựa “Gái Quê” cho Hàn mặc Tử. Trong kháng chiến chống Mỹ lại đề tua cho “Quê Hương” của Giang Nam.
Truyền thống về thơ của trường Quốc học là như vậy đó. Bao giờ mới có những Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên của những thế kỷ sau ? Đó là nhiệm vụ và vinh dự của trường Quốc học Quy Nhơn ngày nay.


(Văn nghệ 1996. Ngày 21 tháng 9, số 38)
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Ảnh đại diện

Hàn Mặc Tử thi sĩ đồng trinh

Nguyễn Thuỵ Kha


Tiểu thuyết tư liệu (trích)

XII
TINH HUYẾT

Có thể nào quên được
Câu thơ buồn vương cây ngô đồng
N.T.K

Bích Khê lội bộ từ núi Ấn về tới nhà thì nhận được thư Trí và bài tựa cho tập "Tinh huyết". Chàng mừng quá, xé ngay thư xem. Và cứ thế, nước mắt ứa ra làm nhoè những con chữ thân thuộc của Trí.

Lần rồi ghé Quy Nhơn thăm Trí, Bích Khê thấy Trí sa suốt qúa. Mình đau khổ có kém gì Trí, nhưng hình như ở bên nhau, an ủi nhau cũng làm vơi được chút ít sự xót xa trong nhau. Ba bài thơ "Thi tứ", "Anh ấy" và "Thời gian" của Bích Khê được Trí khen là tài và tình hoà hợp một cách song toàn, rung cảm người đọc đến da diết, tê mê. Bữa ấy, thương Trí, dù biết Trí đã từng yêu Mộng Cầm – là bậc cháu, Bích Khê vẫn tặng Trí tấm ảnh chàng chụp chung với chị Ngọc Sương. Ý ngầm của Bích Khê là muốn hình ảnh của chị Ngọc Sương sẽ gây mộng cho Trí nguôi ngoai bớt u sầu. Quả nhiên Trí đã làm thơ gửi cho Bích Khê.

Ta đề chữ ngọc trên tàu chuối
Sương ở cung Thiềm nhỏ chẳng thôi
Tình ta khuấy mãi không thành khối
Nư giận đòi phen cắm phải môi.

Bích Khê xem xong vui mừng nhưng giấu chị. Chàng đã thành công trong một kế "bá đạo" thuộc tình cảm. Chắc chắn Trí lại hồi hộp, lại mong chờ, lại mộng mị.Và vì thế mà có thể, quên bớt tật nguyền.
Khoái chí vì được Trí khen thơ Bích Khê đã tập hợp thành một tập gửi cho Trí, thì Trí gửi trả lại và chê qúa kém, nhiều lời phê bình rất nặng nề. Bích Khê giận run người, xé nát tập thơ và viết cho Trí một câu thề: "Trong 6 tháng tới sẽ trở thành một thi sĩ phi thường. Bằng không sẽ không bao giờ làm thơ nữa". Cú Huých của Trí thật công hiệu. Chỉ ba tháng sau Trí đã nhận được tập thơ "viết bằng máu huyết tinh tuý và châu lệ và tất cả say sưa đắm đuối của một hồn thi sĩ". Đấy! Trong thư Trí viết cho Bích Khê là Trí đã mừng ứa nước mắt, nằm ôm tập thơ suốt một buổi chiều sau khi đọc xong. Trí gọi tập "Tinh huyết" của Bích Khê là "Một bông lạ nở hương, một thứ hương quý trọng thơm đủ mọi mùi phước lộc! Một đoá hoa thần dị. Lòng Bích Khê như tê dại đi trước những con chữ của Trí: "Thi sĩ Bích Khê là người có đôi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo, nhìn vào thực tế thì thực sự sẽ thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu..." Trời ơi! Bích Khê chỉ muốn băng ngay khoảng cách xa giữa đất Thu Xà khô quạnh này tới túp lều tranh bên bờ biển của Trí để cùng được chia sẻ những gì Trí dành cho Bích Khê. Những con chữ của Trí như có thần linh đang xô chạy vào mắt Bích Khê.

"... Ở Sọ người cũng như ở Tranh loã thể, sự trần truồng dâm đảng đã nhường lại cho ý vị nên thơ, của hương, của nhạc, của trăng, của tuyết. Quả nhiên là một sự không khen thanh tao quá đến ngọt lịm cả người và cả thơ.

Dáng tầm xuân uốn trong tranh tố nữ
Ô tiên nương nàng lại ngự nơi này
Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu đây
Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm?
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm
Nàng là hương, hay nhan sắc lên hương
Mắt ngời châu rung ánh sáng nghê thường
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc
Vài chút trăng say đọng ở làn môi

Trực giác của thi sĩ mạnh quá đến nỗi thấy nhan sắc lên hương, thấy cả song nghê thường đường nao nao gợn và so sánh hai hàng nước mắt trong trắng của nàng là hai chiếc đũa ngọc. Và thấy mái tóc y huyền xinh như một mùa thu mươn mướt, thi nhân bảo đấy là đêm đang ngủ mơ.

Nếu chẳng phải là một nghệ thuật siêu thần, thi nhân làm sao đưa đến một nguồn sống phong tình mà thanh khiết cho giai nhân? Để có cái ma lực huyền điệu cám dỗ được ngũ quan của người trần...

Sự say mê, tìm kiếm những nguồi hoan lạc vô biên, đã dần dần đẩy thi nhân vào bờ bến của huyền diệu. Ở đây, sự mường tượng của thi nhân lại dồi dào hơn nữa, người ta chỉ gặp toàn âm thanh đương ngã ngớn, với muôn thứ xạ hương bay lẳng lơ trong lòng ngực, trong khi đó hằng hà sa số là ánh hào quang va vào hồn hoa, chạm nhằm không khí lạ, không có sự say đắm nào ở phương xa, hay sự mong nhớ nào cách biệt mà không đến đây để xum vầy, gây nên cảnh tượng đoàn viên của một mùa thơ, mùa trăng bát ngát.

Ở địa hạt huyền diệu, ta thấy thi nhân chú trọng về âm thanh và màu sắc. Trong khi nói đến nhạc, thi nhân nghĩ ngay đến những cung cầm chơi vơi, âm điệu rung động cả không gian. Vì bởi mê man với sự "nhẹ nhàng, nhịp nhàng thơ đều trong sương", thi nhân đã sáng tạo được rất nhiều bản ca thần tình, diễm ảo, và nhạc lúc bấy giờ cũng không là nhạc nữa. Nó đã bay ra hương, ra hoa, ra thơm, ra mát, ra ngọt, ra ngào, ra gì mê tơi, run rẫy hay âm thầm nức nở, lanh lãnh như giọng cười, mơn man như ân tình dò hỏi:

...Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung thương
Tôi không bao giờ tôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Buồn lưu cây đào xin hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi! thu mênh mông!

Đây là cả một trời yêu thương da diết, một trời tương tư, một trời âm hưởng, buồn nào, buồn nề:

Vàng rơi! vàng rơi! thu mênh mông!

Thi nhân kéo ta đi lướt thướt trong cõi u hoài, đằm thắm từ những bản đàn xôn xao hồi hộp như Tỳ Bà, Mộng Cầm Ca, Hoàng Hoa, sang qua thế giới hào qung, gây cho ta nghe một điệu nhạc hiền hoà và ngọt ngào vô cùng đến tê cả lưỡi và hàm răng:

Ô nắng vàng thơm rung rinh điệu ngọc
Những cánh hồng đơm, những cánh hồng đơm.
Nhẹ nhàng, nhịp nhàng thở đều trong sương
Màu trăng không gian như gờn gợn song
Từ ở phương mô nhạn mang thơ về
Đàn thơ cơ hồ lên cung ân điệu
Đây dây trinh bạch khóc mướt trong mơ
Dây hồn ngọc thạch xanh xao như tờ
Ô cõi lầu mây ánh gì kim cương
Áo nàng thơ ngây nao nao nghê thường
Thơ bay, thơ bay vô bàn tay nghề
Thơ ngà ngà say thơ ngà ngà say
Nàng ơi đừng động có nhạc trong dây
Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát trời mây
Nhạc lên cung hường, nhạc vô đào động
Ô nàng tiên nương hớp nhạc đầy hương
Đây là một lối sáng tạo, bỏ vần ở chữ thứ tư (vần giữa) ta đọc đến những câu:

... Nhẹ nhàng nhịp nhàng thở đều trong sương
... Đây hồn ngọc thạch xanh xao như tờ
... Thơ ngà ngà sday thơ ngà ngà say
... Ô nàng tiên nương - hớp nhạc đầy hương

Phải chăng ta nhận thấy sóng âm thanh xao gợn, nổi trôi, lên xuống như muôn hoa lá bị cơn gió lùa. Lời thơ rất thanh: ngào ngạt như tình ý say sưa, mát mẻ phổi ta, tim ta, hồn ta nở nang ra, háo hức một lương duyên kỳ ngộ.

Tác giả khéo dùng hơi và hạ vận ở chữ thứ tư làm cho câu thơ nửa như riêng tây, nửa như thuận hoà...

Chưa hết đâu, thi sĩ Bích Khê vốn là tay sành âm nhạc, đã nghe quen tai những bản nhạc tây như Valse, Menuet, Sérénahe, Marahe... đã từng lĩnh hội và thiệp liệp đến thể cách của văn thơ Thái tây, nên am hiểu một cách thông minh những lối sáng kiến từ điệu. Và đây là một đoạn thu phảng phất như âm điệu bài "Re versibilité" và "Harmonie du soir" của Baudelaire hay bài "Féerie" của Valéry:

Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Của gương hồ im lặng tợ bài thơ
Chân nhịp nhàng lắng nghe hương nằng nặng
Đây bài thơ không tiếng của đêm tơ
Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Của hồn thu đi lạc ở trăng mơ

Âm thanh là một nửa tinh thần, anh hoa của thế giới huyền điệu. Còn một nửa khác phải là màu sắc phương phi của khí thiêng hun đúc, rạng rỡ của một trời lưu ly, mã nảo, trân châu. Hình như, đã lâu lắm chàng thi nhấnc cái ý niệm bao quát, tân kỳ, đem mình ví với một thiên tượng luôn ấp ủ những khói mây huyền ảo.

Màu sắc như ta đã thấy trong các thi phẩm đông tây đều gồm có hai tính cách:

- Màu sắc cụ tượng
- Màu sắc trừu tượng

Màu sắc cụ tượng thì lộ nguyên hình bằng bản chất của nó, như gấm, như hoa, mà ta sờ được, nắm được với đôi tay, còn màu sắc trừu tượng là thứ gì nửa thực nửa hư, nghe, thấy, biết mà không làm chủ được nó. Ví dụ: Ánh sáng, hương thơm, nhạc vui, không gian, thanh khí...

Màu sắc cụ tượng rất dễ tìm, dễ kiếm, trái lại màu sắc trừu tượng rất khó sáng tạo, vì đây là cái đẹp của thơ, và phải có con mắt của thi nhân, của một kẻ siêu phàm, thoát tục mới nhận thấy cái đẹp thiêng liêng, phép tắc ấy, và mới thấu triệt hết tinh hoa của nó. Với màu sắc trừu tượng, thi nhân có cái công phu làm cho trở nên cụ tượng? Nghĩa là có thể nắm được một nạm hào quang, lùa không gian vào vạt áo, dồn kinh cầu nguyện về phương Nam, cho hai tiếng sáo đuổi nhau là là.

Bắt cái vô hình trở thành hữu hình, khiến cái chết trở nên sống, cho vật câm không còn là câm nữa.

Đây là nghệ thuật và trí tưởng tượng phi thường của thi nhân, nếu thi nhân là thiên tài.
Bích Khê đã tỏ cho chúng ta thấy chàng xứng đáng với hai chữ thiên tài ấy;

Ôi cặp mắt đa tình ngời sắc kiếm
Một bàn chân ve vuốt một bàn chân
Mát làm sao, mát rượi cả châu chân
Máu ứ lại, máu dồn lên giữa ngực
Ôi! thớ thịt có đàn lên cung bậc

Bên những chữ cụ tượng như cặp mắt, bàn chân, châu thân, ngực, thớ thịt rất tầm thường không gợi cho ta được một sự rung động tân kỳ nào cả mà thi sĩ đã khéo đưa chúng ta một nguồn cảm giác tinh thần khiến đôi mắt ngời sắc kiếm, bàn chân được ve vuốt, châu thân mát rợn lên và thớ thịt lại có đàn lên cung bực:
Và đây là những màu sắc, màu nhiệm mà trí người thường không tạo ra được:

Lầu ai gánh gì như lưu ly?
Nụ cười ai trắng như hoa lê?
Thuỷ tinh ai để lòng gương hồ
Không gian xà cừ hay san hô

Bích Khê lững thững đi. Chàng đã tới rặng dừa bên Cổ Luỹ Cô Thôn lúc nào không hay. Trong tâm trí chàng còn đang rối bời những con chữ mà Trí đã trao cho tập "Tinh huyết" của chàng. Gió ùa lên Đồng mía xào xạt như lay gọi. Chiều ở phía cửa sông Trà thật buồn. Phía xa, núi Ấn như một con dấu khổng lồ đóng xuống sông Trà. Cũng phía xa bên này sông, núi Bút như đang viết lên trời mây những câu thơ rớm máu của một thời loạn ly gươm dáo.
Không hiểu sao, Bích Khê chợt nhớ Hà Nội, cái quán nước ở đầu ngõ Cẩm Chỉ và những bóng dáng sĩ Bắc Hà. Chắc Trí sẽ chẳng bao giờ biết đến Hà Nội được nữa. Trí có lẽ là một thi sĩ lớn khác nhiều thi sĩ đương thời là ở chỗ đó. Cũng lạ...

XIII

RA ĐỜI

... Một ngọn núi vô cùng
Mùa xuân đông chín lại
N.T.K

Tháng 6 năm 1939. Mùa hạ Quy Nhơn oi nồng. Mãi cuối chiều mới thấy gió mát từ biển trào vào. Bệnh tật làm Trí gầy hẳn. Chỉ có đôi con mắt còn linh hoạt như chưa đau yếu gì. Lá thư của Trọng Miên từ Sài Gòn gửi ra khiến Trí nghĩ ngợi mấy bữa nay. Thế nào nhà thơ? Đó là câu hỏi ngàn đời nay. Và chắc là còn hỏi mãi không thôi. Nhưng rõ ràng là mỗi người làm thơ đều có một quan niệm của mình. Trí lại nghĩ đến Bô-Đờ-le. Dù sao cái ảnh hưởng của "Mặt trời thi ca" này quả là không nhỏ. Nhưng thi ca Pháp không thể làm mất bản sắc Việt Nam. Những mô phỏng kiểu vẹt lập tức bị đào thải. Riêng Trí, Trí cảm thấy mình đã vươn tới một cái gì khác lạ hơn. Một cái gì lấp lánh đằng sau Thánh kinh, Trí quyết định viết thư trả lời Trọng Miên.

Quy Nhơn, Juin 1939
Miên thân mến

Miên có hỏi Trí về quan niệm thơ. Đối với Trí quan niệm rất khác thường không giống Baudelairemlàm. Theo Baudelaire thì va lấy Passion làm hứng vị cho thơ. Trước kia nếu Miên lật tập Thơ Diên của Trí ra, Miên sẽ thấy nhiều bài thấm thía những tình cảm rất nồng nàn và rất say sưa... Trí đã phát tiết hết tinh lực của hồn, của máu, bằng những câu thơ ngất đi vì khoái lạc. Chỗ ấy, hơi đồng một quan niệm với Baudelaire. Trí nói hơi đồng thôi vì trong khi làm thơ, Trí đã tận hưởng những phong vị của nhạc, của hoa, của trăng, của gái một cách vô tội. Chứ đối với Baudelaire, va đã nói: "nghĩa là va đã hiểu lầm chữ Passion rối vậy.

Tình cảm – hay cảm hứng (en-thousiame) - với dục tình (passion) khác nhau nhiều. Tình cảm là sự thanh bạch hồn nhiên, không có một chút gì bơn nhơ, tội lỗi, còn dục tình là cả một sự ham muốn phi thường ngoài điều răn của Đức Chúa Trời. Tất cả trong thế gian này, hay có một cõi xuất thế gian nào nữa, những thứ gì đã trụ trong hai thế gian ấy (cõi hữu tình và cõi vô vị) đều là hình ảnh của thơ cả. Đức Chúa Trời đã tạo ra trăng, hoa, nhạc, hương là để cho người đời hưởng thụ (elements de la poésie) nhưng người đời u mê phần nhiều không biết tận hượng một cách say sưa, và nhân đấy, chime nhiệm lẽ màu nhiệm, phép tắc của Đấng Chí Tôn. Vì thế, trừ hai loài trọng vọng là "thiên thần và loài người ta", Đức Chúa Trời phải cho ra đời một loài thứ ba nữa: loài Thi sĩ, loài này là những bong hoa rất quý và rất hiếm, sinh ra đời với một sứ mạng rất thiêng liêng: phải biết tận hưởng những công trình châu báu của Đức Chúa Trời đã gây nên, ca ngợi quyền phép của Người và trút vào linh hồn người ta, những nguồn khoái lạc đê mê rất thơm tho, rất tinh sạch (but de poésie). Bởi muốn cho loài thi sĩ làm tròn nhiệm vụ với thế gian này – nghĩa là tạo ra những tác phẩm tuyệt diệu, lưu danh lại muôn đời. Người bắt chúng phải mua bằng giá máu, luôn luôn có một định mệnh tàn khốc theo riết bên mình.

Không rên siết là thơ vô nghĩa lý Hay:
Ta hiểu chị trong áng gió nhiệm màu
Những hạt lệ của trích tiên đày đoạ

Cho nên thơ là một tiếng kêu rên thảm thiết của một linh hồn thương nhớ, ước ao trở lại trời, là nơi đã sống ngàn kiếp vô thỉ vô chung, với những hạnh phúc bất tuyệt, Thi Sĩ rơi xuống cõi đời, bơ vơ, bỡ ngỡ và lạ lung. Không có lấy một người hiểu mình. Thi sĩ đã ngất ngư trong khi nuốt hết khí vị thanh tao của mùa xuân ấm, của tất cả những lương thực ngon ngọt mỹ vị làm bằng hương báu, làm bằng nhạc thiêng, làm bằng rượu say, làm bằng châu lệ...(gene d un poènme). Song le - miệng luỡi của thi sĩ vẫn nóng ran, vẫn còn khát khao them thuồng những vật lạ muôn đời(génic créateur aimant toujours le nouveau) của thế gian nếm mãi, chưa bưa, chưa ớn, chưa hả hê chút nào. Thi sĩ vẫn tìm mãi vẫn còn kêu rên thảm thiết, để đi đến cõi ước muốn hoàn toàn. Trong đời thi sĩ, thi sĩ đã sống cô độc, những người con gái rất xinh đẹp cũng không làm cho thi sĩ vui đặng, vì thi nhân thấy ở người con trai cũng như ở người con gái, đều có một tâm thuật nhỏ nhoi tầm thường, không hợp với tính tình thanh cao của thi sĩ. Vì thế, thi sĩ cứ kêu rên thảm thiết là để tìm một người tri kỷ. Mà than ôi, không bao giờ thi sĩ tìm đặng. Người tri kỷ của thi sĩ phải là một bậc cao quý, toàn tài, toàn năng, một đấng mà thi sĩ nhận thấy như là hết cả mọi sự. Đấng ấy là Đức Chúa Trời, kể lể hết niềm đau thương của Người, dâng cho Người những bài thơ sáng láng của anh hoa, thế mới là mãn nguyện. Vì Đức Chúa Trời đã tạo ra thơ ở thế gian...


(Sông Hương.- 1992.- Tháng 9-10 (Số 5) (1352); KHPL: BĐ.04(91))
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Ảnh đại diện

Con người Hàn Mặc Tử qua thơ anh

Nguyễn Minh Vỹ


Một văn hào nổi tiếng trên thế giới đã có một lời đầy triết lý, "muốn viết, phải biết mùi đau khổ".
Điều kiện ấy, mọi chúng ta đều biết, Hàn Mặc Tử có thừa.
Chúng ta đau xót nhớ lại điều đó, nét đặc trưng của con người anh, của tâm hồn anh, của văn thơ anh. Lịch sử văn học của cả thế giới – không phải chỉ riêng ở nước ta – không hề có một trường hợp như anh. Nhà thơ mến yêu của chúng ta đã trãi qua quá nhiều đau khổ - trước hết cũng phải nói đến nỗi khổ chung của dân tộc thuở ấy đang còn là "Vong quốc chi nô" mà anh là một con người có tâm hồn yêu nước ngay từ thuở còn là thiếu niên, mang trong mình cái "gien" chung của mọi con người Việt Nam, lại được sự bồi dưỡng ngay từ lúc mới bắt đầu biết suy nghĩ, nhờ nhà chí sĩ Phan Bội Châu mà anh có may mắn làm quen và có quan hệ thơ văn thuở Cụ là "Ông già Bến Ngự".
Nhưng điều đáng chú ý lại còn là nỗi đau khổ của riêng anh: Thân anh đã mắc phải một trong "tứ chứng nan y", mà lại là thứ "nan y" nhất. Ác nghiệt hơn nữa là bệnh của anh làm cho người bệnh không sống được trong cuộc sống bình thường. Là một thanh niên đang độ đắm say trong cuộc "sống xã hội" mà bị cách ly với xã hội; yêu quý gia đình vô vàn, nhất là mẹ, mà phải cách ly với gia đình, với mẹ; Tha thiết yêu đương mà phải cách ly với cả người, người yêu chung thuỷ suốt cả đời, dù anh bệnh tật... Đau xót hơn nữa là đang tuổi xuân xanh tràn đầy sức sống, mà phải sống trong cái cảnh không biết sống chết ngày nào, thậm chí giờ phút nào, trong thân hình "tàn rữa" vì bệnh tật. Chung cuộc, một con người tài hoa, son trẻ, đang "độ xuân thì" mà phải lìa cõi đời khi mới hai – mươi – tám - tuổi!
Nhưng trong cái đau khổ riêng ấy, vượt qua tất cả các mức đau khổ của con người, anh vẫn ra sức phấn đấu để sống, sống mảnh liệt – Càng cảm thấy mình chết đến nơi, lại càng ra sức sống, càng sống một cái sống nồng cháy, nóng bỏng hơn, với hồn thơ của mình, với thơ của mình! Có thể nói là anh sống gấp bội lên trong tâm hồn
Trên cái thể xác đang chết dần mòn của anh! Trong cái cảnh một con người biết mình sắp chết, sắp trút linh hồn, anh cố gắng bằng... thơ!

"Một mai kia ở bên khe nước ngọt
Với sao sương anh nằm chết như trăng"

Thơ đối với anh trong những khoảng khắc ấy đã trở thành một nhu cầu sống, một liều thuốc cứu tử, cho riêng anh, và có thể nói là cho cả loài người! Để loài người hiểu thấu nỗi khổ đau dằn vặt của con người như anh.
Trong tình cảnh ấy những bài thơ, ý thơ của Hàn Mặc Tử những bài thơ mà tự anh anh thích gọi là "thơ điên, thơ loạn", thực ra không điên loạn chút nào- trái lại đó là những bài thơ, văn, thể hiện một sức sống phi thường, thể hiện một lòng ham sống vô biên, thể hiện một ước mơ rất chi là "con người": ước mơ được sống khi ý thức được rằng mình sắp chết, đang chết. Hơn nữa vì ý thức được mình sắp chết cho nên phải "sống gấp", sống bằng thơ...

Thơ ra chưa khỏi bút
Giọt mực đã rụng rồi
Lòng tôi chưa kịp nói
Giấy đà toát mô hôi!"

Hoặc:

Tôi muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
Như mê man, chết điếng cả làn da".

Xin nói thêm ngay rằngkhi anh nói "làn da chết điếng" đó không phải là tưởng tượng mà là thực trạng của làn da của con người bị bệnh phung đang bị căn bệnh nó dày vò "chết điếng" thật!

Cho nên anh thiết tha cầu khẩn:

"Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết
Trải niềm đau trên mảnh giấy rung rinh
Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết
Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh".
Là "con người" được cái diễm phúc là lành mạnh, sống bình thường như mọi người, có lẽ ta khó cầm được nước mắtkhi đôc lại những lời đau thương, quặn quại của hồn thơ của con người hàn Mặc Tử!
Cho nên để hiểu thấu thơ anh, ta cố làm sao hiểu thấu được lòng anh, hiểu thấu được con người anh trong cái đau thương vô hạn của anh. Không phải vì anh là "lãng mạn, là siêu thực" mà vì anh là một con ngườiđau thương vô hạn...

*


Ta hãy bắt đầu bằng con người bình thường của anh. Thì nó cũng như con người của mỗi người Việt nam, mỗi thanh niên Việt Nam thuở ấy: sinh ra, lớn lên trong cảnh đất nước bị đoạ đầy, dân tộc còn bị thực dân, phong kiến áp bức bóc lột, nhân dân còn đau khổ, có chí khí, tìm đường đấu tranh tháo gỡ xích xiềng nô lệ, noi gương truyền thống cha ông.
Trong thơ Hàn Mặc Tử anh cũng đã nói lên tinh thần đó, bằng những lời tho ngắn gọn nhưng đủ để ta hiểu lòng anh:

"Thương em không dám nghĩ
Đúng lúc nước nhà nguy
Mối thù tràn như song
Lòng nào anh nỡ si"

Nhưng tôi không muốn nói nhiều về mặt này mà muốn nói về nét riêng của thơ anh trong thời kỳ thơ anh "bung ra" với bệnh tình anh chớm nở và phát triễn đến huỷ hoại dần thể xác anh, cướp mất anh, chỉ trong vòng ba bốn năm trong lúc- cho phép tôi vẫn nhắc lại – anh đang thời sung sức cả về thể xác lẫn tinh thần.
Để lộ hết tâm tình của người viết bài này, tôi xin thật thà kể lại rằng khi biết tôi định viết về Hàn Mặc Tử một bạn già thân quen dặn chừng tôi: "Này vừa phải thôi nhé. Đừng có như ai khi chê thì nhận đến bùn đen mà lúc khen thì đưa tận mây trời!". Lời "răn đe" đó làm tôi hơi cụt hứng. Ở đời phải bốc lên một chút mới lý thú chứ, nhất là khi đi vào thơ văn. Nhưng ở đây tôi không làm nhà "phê bình" thơ, vì việc đó quá khả năng và ngoài nghề nghiệp của tôi. Tôi chỉ xin kể lại cuộc sống của con người hàn Mặc Tử trong thời gian chúng tôi cùng cộng tác với nhau trong "Thái dương văn đoàn" ở Quy Nhơn. Nhà hai chúng tôi lúc ấy ở gần sát nhau: anh sống chung với gia đình ở 20 còn tôi thì "Ăn cơm tháng" ở nhà bà con ngay số 24 đường Khải Định cũ. Về sau anh buộc phải sống riêng, tôi cũng đổi nhà, nhưng cũng ở Quy Nhơn thôi và liên lạc thường với anh. Xin thêm một chi tiết nhỏ nhưng quan trọng là một trong những người anh yêu và yêu anh - cả về con người và văn thơ – cũng là quen thân với gia đình tôi, cụ thể là với vợ chồng tôi: đó là Mai Đình.
Nhóm "Thái dương văn đoàn "tập hợp một số cây bút ở Quy Nhơn, số lớn là trường Quốc học Qui Nhơn, tiếng Tây gọi là college, tập hợp người ở các tỉnh miền Nam Trung bộ và cả Nam Tây Nguyên. Xưng là Văn đoàn cho ra vẻ nhưng thực ra chúng tôi có cái mặc cảm của con người tỉnh lẻ, nhút nhát, rụt rè lắm. Có làm gì "nên nỗi" thì phải ở trung tâm lớn như hà Nội, Sài gòn, Huế, chứ còn ở tỉnh thì ăn thua gì? Nhưng chúng tôi đã tự giải quyết cho mình cái mặc cảm ấy. Ao ta thì ta tắm; biết đâu nước ao ta cũng gạn đục khơi trong được, nước ao nhỏ có khi dễ khơi trong hơn! Ì thế mà chúng tôi mạnh tay làm: Chế Lan Viên ra "Điêu tàn", Hàn Mặc Tử "Gái Quê", cả đám chúng tôi ra "Nắng xuân": Xuân Khai (sau này là Yến Lan), Viết Lãm, Phú Sơn, Trọng Minh (là Vỹ tôi)... Thế là ngòi pháo đầu đã nổ! Làn điệu mới của Điêu Tàn, Gái Quê có tiếng vang khá xa và khá nhanh... Lòng tự tin của chúng tôi được nhen nhóm lên: thì ra tỉnh lẻ cũng đẻ ra "nhân tài" được.
Về Hàn Mặc Tử thực ra lúc ấy chúng tôi cũng chưa tìm hiểu gì về anh cho thật sâu sắc lắm. Nhưng anh lớn tuổi hơn cả trong nhóm chúng tôi, lại là nhà viết báo hẳn hòi trong một tờ báo lớn ở Sài Gòn! Tôi cũng không hề hỏi đến tên Thánh của anh, chỉ biết tên thật là Nguyễn Trọng Trí trong một gia đình mới, anh em trai gái lấy tên là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín và Hiếu nữa! Chúng tôi cũng không hề tranh luận với nhau về hữu thần và vô thần tuy tôi biết là gia đình "có đạo" và anh biết tôi là chính trị phạm mới ra tù, là cộng sản. Chúng tôi chỉ trao đổi ý kiến với nhau, thường là khá sôi nổi về vấn đề viết gì, làm gì để chống lại những thủ đoạn lừa mị của thực dân phong kiến lúc bấy giờ đang giả danh tự do, dân chủ để đẩy thanh niên nhất là ở các thành thị vào lối sống hưởng lạc, sa đoạ, trong lúc chúng bị bắt buộc phải "thay gót sắt bằng góc cao su" vì do Mặt trận Bình dân ở Pháp thắng thế, phong trào trong nước ta dưới sự chỉ đạo của Đảng cũng đấu tranh thực hiện Mặt trận tổ quốc dân chủ, đẩy mạnh phong trào đòi dân chủ dân sinh(1)
Nhà báo Hàn Mặc Tử - nói thêm cho vui là ngày ấy trong nhóm chúng tôi mới chỉ có anh là "nhà" còn anh em khác chưa ra lều ra chõng gì cả - nộp cho chúng tôi một tiểu phẩm lấy tên là "Ông nghị gật", bút danh là "Trật Sên", chế diễu trò hề bầu cử "Trung kỳ nhân dân đại biểu viện" một cách khá sâu bén và ngộ nghĩnh, đúng lúc tại địc phương đang có phong trào vận động bầu người do ta đưa ra, chống lại người của chính quyền. Ai đã đọc bài ấy lúc bấy giờ và ngày nay nữa: nội dung, cũng như bút phápkhá sâu sắc! Chúng tôi cho vào tập Nắng xuân 1937 ngay.
Còn thơ? "Gái Quê" của anh cũng gây cho chúng tôi một ấn tượng rất sâu sắc về nội dung lành mạnh, thi tứ dồi dào và lời thơ... rất hay. Hẳn cho phép tôi trình bày cách đánh giá của riêng tôi về tập thơ đó trong cái trách nhiệm kiểu như "chính trị viên" của nhóm chúng tôi.
Hàn Mặc Tử của chúng ta là một dân thành thị - lại có sống và làm báo ở Sài Gòn nữa, nhưng sao hồn thơ anh lại hướng về nông thôn và thơ anh về người nông dân lao động nhẹ nhàng trong sáng gần như là một lời ca dân gian:

"Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng Trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang".

Thi sĩ đã mưu tả "cái" lao động nặng nhọc của cô nông dân trẻ trung sao mà thấy nhẹ nhàng, thánh thót như vậy? Và còn gì đẹp bằng những lời thơ như:

"Sóng cỏ xanh tươi gơn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi!"

Nghe nói trong các trường học của chúng ta các cháu học sinh ít biết về thơ Hàn Mặc Tử và các thầy cô cũng cho rằng giảng thơ Hàn Mặc Tử khó lắm. Nhưng những ý thơ, lời thơ như trên, không ít trong các tác phẩm đầu tay của thi sĩ, theo tôi nghĩ dễ cảm, dễ thương lắm chứ! Có cần phân tích thêm chăng là "cuộc chơi" của các cô "gái quê" của Hàn Mặc Tử là cuộc chơi tươi trẻ, lành mạnh, nên thơ của những chàng thanh niên và nàng thanh nữ lao động, đầy tình yêu lao động, tình yêu con người, chứ không phải là những cuộc hoan lạc của đám người sa đoạ truỵ lạc ở thành thị đang bị mắc vào cái bẫy mà thực dânphong kiến thuở ấy gài cho họ để làm cho họ quên đi cuộc đời thực, quên đi nhiệm vụ đấu tranh cho lý tưởng tuổi xuân trong thời điểm ấy của lịch sử đất nước ta, dân tộc ta!
Thêm nữa: anh thanh niên Nguyễn Trọng Trí yêu nông dân, yêu quê hương tươi đẹp, cuộc sống thựccủa người lao động như thế và đang tuổi thanh xuân ắt đã nhìn trời nhìn đất, con người với một niềm lạc quan trong sáng mà thi nhân Hàn Mặc Tử không tiếc lời ca ngợi. Anh mơ xuân, anh "mừng xuân ra đời", anh muốn "Tứ thời xuân" - thực ra thì không thực tế, nhưng ta hãy tha thứ cho hồn thơ của người thơ có khác con người bình thường của chúng ta – và xin mời các bạn hãy thưởng thức một số câu thơ của anh về xuân:
(1) Tôi không nói dài về điểm này tuy đây là một điểm rất quan trọng vì có lần tôi đã phân tích khá sâu trong một bài về thơ Chế Lan Viên (Tạp chí văn học tháng 1- 1988).

... Bao nhiêu mơ ước trong trần ấy
Như chực xuân về để lộ ra
... "Xuân đây rồi, lan tràn như bóng nắng"
Anh muốn:
"Sống mãi với muôn xuân đầm ấm"
Anh trách:
"Mùa xuân đến mà không ai biết cả!"
Anh kết xuân với thơ anh:
"Mùa xuân em sẽ rất nhiều hoa bướm
Bởi thơ anh tô điểm đẹp trăm chiều"
Anh reo lên khi:
"Xuân vờn trong ánh sáng
Hãy hoan hô, lời cao như sấm
Vạn tuế bay ơi, nắng rợp trời"
Anh tin tưởng:
"Mây hờ không phủ đồi cao nữa
Vì cả trời xuân tắm nắng tươi!"

Còn ai yêu đời hơn anh, còn ai yêu xuân, mê xuân như anh? Vá lời ca của anh vừa thực, cừa đẹp vô ngần...

*


Nhưng bỗng nhiên sao anh lại nói đến xuân với những lời như:

"Ngày xuân hờ hững
Lòng xuân não nề..."

Xin lỗi bạn đọc, tôi lỡ lời. Không phải bỗng nhiên mà có duyên cớ - Duyên cớ đó, không phải là cái duyên cớ thường gặp và vì thường gặp nên bình thường thôi như bị người yêu phụ tình, ruồng bỏ chẳng hạn - Ở đời chán gì cái thứ "trắc trở" trong nhân duyên mà bao nhiêu nhà văn, nhà thơcủa tứ xứ, của muôn thuở, xưa nay, đã trút bao nhiêu mực cho đề tài ấy rồi!
Duyên cớ ấy là do nhà thơ tràn đầy sức sống của chúng ta mắc bệnh hiểm nghèo, chạy chữa nhiều nơi, nhiều thầy, nhiều thuốc mà không chữa được và có khi vì chạy quá nhiều thấy, nhiều thuốc mà bệnh quá trầm trọng, phát triển nhanh hơn... Điều đau đớn nhất là anh phải cách ly với xã hội, với đời... Ban đầu tì gia đình giấu anh trong một góc xép trong nhà (20 đường Khải Định) sau phải đưa đi sống riêng trong một túp lều tranh ở một động cát, ngoài bãi biển, sau phải đưa vào bệnh viện (Quy Nhơn) (bệnh viện thường) cuối cùng phải đưa vào "nhà thương phung Qui Hoà" - Bệnh anh càng nặng, càng phát triển nhanh và cướp mất đời anh...
Những lời thơ, ý thơ của anh trong thời gian đau khổ đến cực kỳ này, ta cố gắng thông cảm cho anh bằng cách đi sâu hơn nữa để gắng tìm hiểu tâm hồn anh. Nào trên đời xưa nay đâu phải có một mình anh là người bị bệnh phong (còn gọi là phung hay hủi) tuy nghe tên bệnh đã thấy rờn rợn người rồi! Nhưng Hàn Mặc Tử của chúng ta (trong đời thường là Nguyễn Trọng Trí, tên Thánh là Phêrô Phanxicô) có suy tư như những người bệnh thường không? Anh là thi sĩ, là người thơ...Anh đang tuổi xuân đầy nhựa sống! Con người anh đang vươn lên. Cuộc sống xã hội của anh cũng thật là phong phú. Đừng như ai nói là anh nghèo. Kể cả chuyện nghèo đói – không thật đâu - của anh vào đây làm gì? Phải thấy anh thuộc hạng người ít nhất là trung lưu của thời đại bấy giờ. Con công chức, có học không đến nỗi tồi, có làm báo, thu nhập ít nhất vào loại bình thường, có gia đình ở một căn phố, trên một đường phố lớn ở một thành phố thuộc loại vừa thuở ấy. Nói đến túp lều tranh là túp lều anh phải ở riêng vì mang bệnh! Khi anh kêu đói, thơ anh có câu nổi tiếng- nay ghi lên bia mộ anh ở Gành Ráng (Quy Nhơn):

Trời hỡi! Nhà ai cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn?"

Ta cũng không nên hiểu chữ đói trong thơ anh một cách thô thiển bình thường để cho có "lập trường" – Hàn Mặc Tử đói là "Đói trăng, đói gió...". Nếu muốn tô đậm niềm đau khổ của anh, phải hiểu chiều sâu tâm hồn anh, chứ không nên hiểu đơn giản như có người hiểu...
Cái "đáng thương" nhất ở anh là "thấy" được bệnh mình phát triển, "thấy" được cái chết sắp đến, sẽ đến với mình, "thấy "được anh sẽ "trút linh hồn" không thể nào cưỡng được.
Cái đáng thương và đáng quý nữa ở anh là trong khi "thấy" được mình sắp chết, "thấy" được xác thịt mình ngày đang tan rữa, ngày càng tan rữanhưng anh vẫn cố sống, có một sức sống phi thường, thậm chí anh đã diễn đạt suy tư của anh một cách "phi lý": "Không xác thịt, chỉ có linh hồn đang sống".
Nhưng Hàn Mặc Tử của chúng ta "sống" không có nghĩa là còn ăn, còn sống, còn ngủ, còn thở như một người sống theo lý tưởng của con người Hàn Mặc Tử, "người thơ" - Đọc thơ anh từ lúc bệnh tình càng tăng lên, giây phút lìa đời gần kề, dù lời thơ có lâm ly, có kinh dị, như thét, như gào, như rú lên... Ta càng thấy đó là sự phản ứng mảnh liệt của tâm hồn anh trước cái chết, để cố đẩy lùi cái chết của thể xác, bù lại cái sắp tiêu tan của thể xác bằng cái sống của tâm hồn. Thơ anh trong những phút giây sẵn sang đón chờ cái chết này có những lời nghe "kinh dị" thật đấy nhưng tự anh đã nói đúng cái đau khổ của tâm hồn anh, nói đúng cái đau khổ của thể xác anh, đau khổ cực kỳ, đau khổ hết mức.
Khi anh viết:
"Thịt da tôi sượng sần và tê điếng
Tôi đau vì rung rợn đến vô biên"

Tôi nghe như là lời "khai" bệnh của bệnh nhân với thầy thuốc - thịt da anh "sượng sần" thật, "tê điếng" thật, anh "rùng rợn đến vô biên" thật trước bệnh tình của mình bằng thơ?
Khi anh viết:
Tôi muốn vớt ai ra ngoài song điện
Để nhìn xem sắc mặt với làn da"

Ta hãy mường tượng đến "sắc mặt" và "làn da" của người mang bệnh như bệnh anh mới hiểu hết tâm hồn anh, nỗi đau khổ của anh khi "nhìn thấy" sắc mặt và làn da của mình ngày một khác đi, biến dị đi.
Hoặc khi:
"Anh đã thoát hồn anh ngoài xác chết
Để chập chờn trong ánh sáng mông lung"

Thì cái đau khổ nhất của anh là:
"Máu đã khô rồi, thơ cũng khô
Tình ta chết yểu từ bao giờ..."

Cho nên anh không chịu để cho "thơ khổ" và còn nhắn lời cho bạn thơ tâm đắc nhất của anh, thi sĩ Chế Lan Viên:

"Ta không muốn người thôi ca hát
Vì luôn đêm song hận réo cung Hằng"

Và anh cười:
"Lá đổ rào rào
Trăng vàng lao xao
Chuỗi cười ha hả
Trên cánh đồi cao"

Nghe tiếng cười ta càng thương anh vì thật ra anh cố phấn đấu với bản thân, có thể nói là tự dối mình vì thực ra ở một bài thơ khác anh phải thú nhận:

"Này đây nước mắt giọng cười theo nhau"
Vì làm sao cười nổi trong tình cảnh ấy?

Làm sao còn chơi được với trăng, tuy trước đây anh say sưa biết bao với xuân ấm, với ánh nắng mặt trời?
Trong thơ, ở đoạn cuối của đới anh, đầy trăng và trăng! Sau đây, nghiên cứu kỹ hơn nữa về thơ anh, có lẽ chúng ta nên đánh dấu thời gian của từng bài để thấy ở từng bài, vào thời điểm nào "hơi thở" của anh thế nào, nhịp đập của tim anh - tiếng nói của "lòng" anh có khi nó "thơ" hơn chăng- thế nào, cả sức đề kháng của não cân anh ra sao và ôi! lại phải kể đến thể xác của anh, tay, chân, mặt mày, da thịt của anh bị thần chết gắm nhặm, ăn dần, ăn mòn đến đâu? Và ở mỗi lúc càng đi đến gần cái chết "thế nào" ngày càng rõ ấy thì lúc đó, lời thơ anh thế nào?

"Hãy mường tượng một người thơ đang sống
Trong im lìm, lẻ loi trong dãy động - Cũng hình như em hỡi động huyền không
Mà đêm nghe tiếng khóc ở đáy lòng
Ở trong phổi, trong tim trong hồn nữa"

Thì tôi nghĩ là anh viết khi đã "bị" câu thúc ở trong "nhà thương phung Qui Hoà" rồi hoặc cũng có thể là chưa vào Qui Hoà nhưng ở một túp lều trên động cát, dưới những hàng cây mà đêm đến trăng lung linh trên biển, biển lung linh dưới trăng, cành cây lấp lánh ánh trăng, "trăng bay lả tả ngủ trên cành vàng..."
Vì ác nghiệt thay cho nhà thơ đang bệnh nặng là cái cảnh Qui Hoà đẹp lắm! Và đã vào đây rồi, với tâm hồn anh, tri kỷ chỉ còn là trăng, anh chỉ còn tâm sự được với chị Hằng, anh say trăng, ngắm trăng trên biển, anh "rược trăng" trên ngọn đồi, anh ngủ với trăng, anh nhìn "người trăng ăn vận toàn trăng cả", anh "chơi trên trăng", anh thấy "trăng tự tử"... Ở đây tôi muốn nói ý riêng tôi mà tôi cho là không đúng nhưng tôi xinphép cứ nóilà trong tình hình đau khổ cả thể xác và tâm hồn như anh thỉ anh tự tử, ta có thể hiểu được – Nhưng trái lại, anh "nhảy ùm xuống giếng vớt trăng lên" - để trăng khỏi chết vì trăng tự tử!

"Tiếng gà gáy rụng trăng đầu hạ
Tôi hoảng hồn lên, giận sững sờ"

Có thể ai đó đã làm một luận văn riêng vời đề tài Hàn Mặc Tử viết về trăng! Luận văn ấy chắc sẽ dài, dài lắm và thử so với nhiều nhà thơ kim cổ, đông tây đã viết về trăng để xem ai thèm trăng, khát trăng, đói trăng, ai có cảm xúc để vịnh trăng như anh? Chắc không phải dễ, nếu không nói là khó ghi được hết ý anh và chính anh cũng không hiểu hết anh:

"Té ra ta vốn là thi sĩ
Khát khao trăng gió mà không hay

Còn một tình riêng của anh? Tôi sợ tham lam quá nên cũng chỉ nói qua một ý: anh thương, anh nhớ, anh giận, anh nhen, anh mơ màng mộng mị về người yêu cũng không phải như con người bình thường thất tình vì bị phụ tình mà anh ở trong một trạng thái tâm hồn khác thường vì tha thiết yêu, được yêu nhưng – ta đã nói rồi, vì bị bệnh nên phải sống cách ly; lại là một người thơ đa tình đa cảm, tình cảm dồi dào, tràn đầy đến nỗi bạn lừa mình, dối mình để an ủi về một người yêu "không có thật", nhưng có cái tên đẹp làm sao! Thương Thương – Anh tuởng thật, đóng kịch với người yêu không có trên trần gian ấy, trong lúc con người yêu mình...Người bình thường đau khổ vì tình yêu không được đáp lại là khác là Hàn Mặc Tử trong hoàn cảnh riêng của mình nhất định phải khác hơn nhiều, phải điên, phải "loạn" vì những mối tình mà có khi anh gọi là "vô duyên" ấy.
Tóm lại, con người Hàn Mặc Tử khác mọi con người khác, nhà thơ Hàn Mặc Tử có tâm hồn, có hồn thơ khác... Anh là người gốc đạo Thiên Chúa giáo cho nên không lạ gì trong cái tính và cái cảnh của "nhà thương Quy Hoà" anh viết "Đêm xuân cầu nguyện".

"Đế vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân
Nở một lượt giàu sang hơn Thượng đế"
Anh kêu lên "Thánh nữ đồng trinh Maria" Bằng:
"Giòng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ
Và "cầu nguyện":
Cho tình tôi nguyên vẹn tợ trăng rằm
Thơ trong trắng như một khối băng tâm
Luôn luôn reo trong hồn, trong mạch máu
Cho vỡ lở cả muôn ngàn tinh dấu
Cho đê mê âm nhạc, và thang lương"

Ta thông cảm với tâm hồn anh, với giấc mơ anh với lòng tin của anh, rất là con người: được sống, sống để làm thơ ngợi ca cuộc sống dù có đau thương lâm ly, dù có sắp trút linh hồn thậm chí khi anh tưởng tượng đã thoát khỏi thể xác, chỉ còn sống với linh hồn, để làm thơ...

*

Tôi đã viết khá dài về Hàn Mặc Tử nhưng vẫn thấy nói chưa đủ, nói chưa hết, chưa hiểu thấu tâm hồn anh, chưa nói được đúng mức sức sống của tâm hồn để thắng cái chết uy hiếp trong từng giây phút nhưng cuối cùng phép lạ vẫn không làm gì nổi để giành lấy, giữ lấy tâm hồn anh bị cơn đau về thể xác cướp đi đúng độ tuổi xuân xanh.
Trước đây ba năm. Năm 1988, nhân dịp đi Quy Nhơn có việc riêng, tôi đã đến viếng mộ anh ở Gành Ráng – Tôi thấy, lại một điều khiến tôi càng thương anh, tiếc anh đến thắt ruột – khu vực Quy Hoà (phía ngoài nhà thương phung) đang được xây dựng thành khu du lịch nhờ cảnh non nước hữu tình như tôi đã nói ở một đoạn trên. Tôi có hỏi anh em địa phương là địa thế một khu du lịch gần một khu bệnh viện đặc biệt như thế có làm cho du khách ngại ngùng không? Anh em cho biết là không can ngại gì vì khu bệnh viện và khu du lịch tuy cùng "địa danh" nhưng không phải ở gần nhau lắm. Anh em lại phân tích thêm rằng: vả chăng ngày nay "khoa học" đã cho biết bệnh phong không "lây" đâu và "khoa học" ngay ở Việt Nam cũng đang nghiên cứu đề phòng ngừa và chữa trị cái chứng "nan y" đó... Và anh em chỉ cho tôi xem một số bà con ở đây, ngay là bệnh nhân được chữa lành và còn sống tuy hình hài không còn được bình thường trở lại như cũ – Có người trở về quê cũ, nhưng không ít người đã xây dựng gia đình - giữa những người đồng bệnh với nhau – và xin đất làm nhà ở ngay tại chỗ, sinh sống bằng cách riêng mà địa phương có điều kiện, phổ biến là chặt củi trong rừng cây gần khu vực bệnh viện, chiều chiều gánh hay vác cho bà con ngoài phố đến mua.
Bất giác tôi tự hỏi: sao hàn Mặc Tử của chúng ta lại không được chữa lành như người khác nhỉ?... Để có thể sống thêm, không mong đến ngày nay mà 5, 3 năm nữa, chỉ ít vài ba năm nữa thôi tính theo thời gian lúc bấy giờ, cũng được, thì kho tàng văn học của ta được giàu thêm, với những tác phẩm khác nữa! Những tác phẩm khác nữa mang dấu ấn độc đáo của "người thơ" giàu sức sống như anh, thơ của một tâm hồn đau khổ luôn muốn vươn lên, bay cao, thoát ra khỏi một thể xác bị huỷ hoại từng giờ, từng phút, thơ càng nở rộ khi bệnh tình càng phát triển! Thơ anh phải chạy đua với thời gian, thách đố với bệnh tật, thách thức với Thần chết ở ngay trong con người anh, lăm le muốn cướp lấy hồn anh.
Để thương nhớ anh, tôi lại xin nhắc đến lời cũa một triết gia xưa nhưng vận dụng vào đời anh rất là phù hợp: "Cái chết không có ý nghĩa gì khi người ta, khi "con người" đã hoàn toàn sự nghiệp của đời mình".
Dù căn bệnh ác nghiệt đã cướp đi cuộc đời quá ngắn ngủi của anh, anh đã đóng góp cho đời một sự nghiệp rất quý giá, anh không những đã hoàn thành mà hoàn thành vượt mức sự nghiệp của đời anh.
Vì vậy, Hàn Mặc Tử anh ơi, anh vẫn "trường thọ" với thơ anh:

"Ta sống mãi với trăng sao gấm vóc
Trong nắng thơm, trong tiếng nhạc thần bay!".


(Nha Trang.- 1992.- Tháng 1-2 (Số 10) (1353); KHPL: BĐ.04(91))
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Ảnh đại diện

Đối thoại trong đêm với Hàn Mặc Tử

Phạm Xuân Nguyên


- Thưa ông, cách đây mấy hôm là tròn đúng năm mươi năm ngày mất của ông tại trại phong Quy Hoà. Hôm ngũ thập chu niên ấy tôi có đọc lại tuyển tập thơ ông do “thi sĩ Chàm” bạn ông tuyển chọn và giới thiệu. Trong “lời giới thiệu” Chế Lan Viên viết: “Hàn Mặc Tử không phải là nhà thơ siêu thực. Tượng trưng càng không. Chủ yếu anh vẫn là nhà thơ lãng mạn (Nhưng siêu thực là gì: romantisme jusqú au bout: lãng mạn đến tận cùng). Anh cũng chưa bao giờ nói đến tôi điên tôi dại. Giờ bảo anh là nhà thơ duy nhất của Việt Nam dùng nhiều yếu tố siêu thực, có khi anh cự cho cũng nên. Siêu thực đây chỉ là yếu tố, chớ không phải là chủ nghĩa, là ngọn cờ đâu mà ngại nó! Tuy chữ ấy từ châu Âu của Breton mà đến nhưng từ xa xưa đã có yếu tố ấy ở Phương Đông”. Như vậy: Hàn Mặc Tử là nhà thơ có yếu tố siêu thực duy nhất ở Việt Nam, ý ông thế nào?

-Cái ông bạn họ Chế “quý dâng tràng chuỗi hột” cho tôi làm lễ trường thọ năm nào vẫn đầu óc thông minh thái quá đến thành rối rắm, phức tạp. Tuyển tập tôi ra năm 1987, thời đổi mới rồi, Chế muốn vĩnh cử hoá, bất diệt hoá vinh quang cho bạn mình sao cứ phải rào chắn vòng vo mãi quanh cái Surréalisme ấy thế. Siêu thực tôi có là có tự bản thân tôi, chứ hồi đó nào đâu tôi đã hiểu tường tận các học thuyết triết học của các triết gia Hútxét, Sôpenhaogiơ, Bécxông. Tôi chỉ biết trong tôi có gì, cảm gì thì nói ra cho biết, cho đạt đến độ say sưa, cuồng nhiệt nhất của khoái cảm tâm linh, vậy thôi.
- Thưa ông, đọc thơ ông ai cũng có cảm nhận đây là siêu thực, hay ít nhất là thơ có yếu tố siêu thực như họ Chế nói. Cảm giác đó ở tôi được củng cố bằng lý luận, xin lỗi, thói quen nghề nghiệp mà, qua tìm hiểu trường phái siêu thực của Pháp. Các nhà siêu thực muốn mô tả cái không thể nhìn thấy, muốn ghi lại trên giấy hoặc trên vải những phản ứng mù mờ của ý thức và tiềm thức, những liên tưởng nẩy ra bất ngờ và vô nguyên nhân trong đầu óc. Chủ nghĩa siêu thực chỉ cần ghi lại những cái nhìn lạ lùng đó, xâu chuỗi chúng vào nhau thế là đủ, dường như những lĩnh vực bí ẩn của cái huyền tưởng tồn tại tự nó phát triển hoàn toàn nội tại. Thế giới vũ trụ trăng sao của thơ ông chính đã được tạo ra trên cơ sở này. Và ông xác định rõ đó là “thơ mầu nhiệm”. Nghĩa là ông có ý thức tìm đến cái siêu thực.
- Có lẽ vừa là thế vừa không phải là thế. Trước hết tôi làm một thi sĩ. “Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng. Điểm này tôi giống các thi sĩ khác. “Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi yếu đuối quá. Tôi bị cám dỗ, tôi phản lại tất cã những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật. Và có nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên”. Đây là cái khác người của tôi, có thể từ đó mà ra cái siêu thực cũng nên. Chế Lan Viên nói đúng, tôi vẫn là nhà thơ lãng mạn. Duy chỉ có do hoàn cảnh, do khí chất nhất là do tài năng, tôi cũng xin lỗi anh nói thế để cho thật công bằng và chính xác, nên thơ tôi có một vẻ riêng đặc biệt. “Người thơ phong vận như thơ ấy”, viết câu đó tôi muốn nói phải lấy thơ để xét đo người chứ không phải ngược lại.
- Thưa ông, câu thơ rất thích hợp để nói về tính chất siêu thực của thơ ông. Theo nghiên cứu, các nhà thơ siêu thực Pháp thừơng hay làm phép so sánh “ngược”, nhấn vào vế thứ hai chứ không phải vế thứ nhất, do đó phá vỡ trình tự liên tưởng thông thường. Thí dụ “Điếu xì gà đắng và ngon như cuộc sống” (Apoline) – Không phải nói điếu xì gà, mà nói về sự đắng cay - ngọt ngào của cuộc sống; hoặc: “những kẻ thị dân đáng thương hơn lòng căm thù của tôi, sự giận dữ của tôi” (P. Iunhíc) – đó là nói về cơn giận dữ tuyệt vọng, vô ích của nhà thơ. Trong thơ ông những so sánh ngược, liên tưởng ngược như thế không nhiều nhưng đáng chú ý.
- Tuỳ anh và các nhà nghiên cứu xét đoán, còn tôi viết là tôi mơ và tôi điên tôi nói như người dại…
- Thưa ông, đó chỉ là một mặt mà thôi. Có một mặt khác là ông rất có ý thức dùng trực giác thẩm mỹ để khám phá ra những bí mật của tự nhiên và ý thức, rất muốn tìm cách chuyển dịch những ranh giới của cái gọi là hiện thực. Một điều kỳ lạ và lý thú là có sự trùng hợp hoàn toàn giữa tư tưởng của André Breton và của ông, mặc dù ông mất trước 4 năm khi tuyên ngôn của chủ nghĩa siêu thực ra đời. Trong bản tuyên ngôn đó A. Breton nêu lên nhiệm vụ của nhà siêu thực là nghiên cứu “trạng thái đặc biệt của trí tuệ khi cuộc sống và cái chết, hiện thực và tưởng tượng, quá khứ và tương lai không bị xem như những cái tương phản” (Tài liệu đã dẫn, P. 1946, trang 76-77) Còn ông viết trong bài “Chiêm bao với sự thật” như sau: “có hay không, hư hay thực là những huyền hão chập chờn trước mắt. Nếu Đường Minh Hoàng phục sinh chắc cũng rỉ tai tôi mà nói cái chuyện lên chơi cung trăng với chuyện xuống âm ty gặp Dương Quý Phi là có thực. Tôi cũng tin là có chứ sao! Và tôi sẽ ký thuyết minh một cách rất nhà Phật là sắc cũng như không, chết cũng như sống gần cũng như xa và hư cũng như thực…” nếu nói là những tư tưởng lớn Đông – Tây gặp nhau, ở đây là những tư tưởng tìm kiếm khai phá lối đi cho văn học nghệ thuật, thì vinh dự cũng xứng với ông trong làng thơ Việt Nam hiện đại.
- Xin lỗi, tôi không dám. Nhưng quả thực tôi coi làm thơ là sống thật. Trong mộng, trong mơ, trong chiêm bao, chứ không phải là thoát cõi trần lên cõi tiên. Tất cả là hoá làm một, vạn vật nhất thể hiểu theo nghĩa tôi hoà vào vũ trụ, thiên nhiên là là cái “tôi” thứ hai của tôi, là sự thể hiện bản ngã của tôi. Tôi lưu ý ông đến bài “Ave Maria”.
- Thưa ông, theo ý tôi bài đó dưới cái vỏ lời cầu nguyện của con chiên Nguyễn Trọng Trí thực ra là một bản tuyên ngôn thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Một tuyên ngôn khá là siêu thực. Hai hàng lệ rưng rưng của ông khóc cảm tạ Đức Mẹ phò nguy cứu bệnh biến thành:
Giòng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ
Bút tôi reo như châu ngọc đền vua
Trí tôi hớp bao nhiêu là khí vị
Và trong miệng ngậm câu ca huyền bí
Và trong tay nắm một nạm hào quang.

Một bức chân dung tự hoạ thật đẹp của ông. Ca ngợi đức mẹ thực ra là ông khẳng định tài năng của mình và chứng tỏ trong cái nước Trời thi ca thì chính ông là chúa tể. Tiếp đến ông cầu xin phước lành Đức Mẹ:

Cho tình tôi nguyên vẹn tợ trăng rằm
Thơ trong trắng như một khối băng tâm
Luôn luôn reo trong hồn trong mạch máu
Cho vỡ lở cả muôn nghìn tinh đẩu
Cho đê mê âm nhạc và thanh lương
Chim hay tên ngọc, đá biết tuổi vàng.

Sức mạnh của thơ đến như vậy, hỏi còn ước gì hơn? Và ông đã làm được vậy. Hàn Mặc Tử là nhà thơ đã dám “Vãi tung thơ lên tận sông Hằng. Thơ phép tắc bổng kêu rên thống thiết”. Siêu thực là ở chổ làm cho thơ phải kêu lên như thế chứ ở đâu nữa. Mà vì thơ kêu thống thiết, tiếng kêu bi thảm và lạ lùng của một con người bất hạnh, nên dù không nhiều lắm người nghe hiểu, dù chịu bị bịt bung che chắn nhiều năm thơ đó vẫn sống như bông phượng nở trong màu huyết nhỏ xuống lòng những giọt châu.
- Cám ơn anh. Thật tình cho đến bây giờ, 50 năm sau ngày nằm xuống, đôi lúc tôi vẫn cảm thấy buồn tủi cho thân phận thi ca của mình. Những dòng thơ huyết thổ ra qua những cơn ho, cơn vò xé tâm can đó trộn lẫn với trăng, hoa, đất cát thành một khối chất của Tử tôi sao lại bị dập vùi, trầm luân đến thế. Phải chăng khối chất ấy là một cái gì quái dị, khó hiểu, khiến người đời kinh ngạc.
- Thưa ông, quả đúng vậy, nhưng xin nói ngay để ông yên lòng và vui lòng rằng đó lại là cái riêng, cái độc đáo duy nhất của ông. Thế giới thơ ông là thế giói của những cái quái lạ, cái kinh ngạc, ông tạo những hình ảnh gây ngạc nhiên sửng sốt, trong thi pháp siêu thực có thuật ngữ Image stupéfiante do Apôline đưa ra. Ông chắc biết dịch ra tiếng việt nghĩa là “hình ảnh” (hoặc hình tượng) có tính sững sờ, kinh ngạc. Đó là sự đặt cạnh nhau những yếu tố thuộc các bình diện khác nhau của hiện thực, sự đối chiếu cái không thể đối chiếu được - chủ nghĩa siêu thực đã hình thành dưới phương châm này và đây vẫn là một thuộc tính chính của nó. Trong thơ ông điều này thì đầy tràn, đó là đặc điểm thi pháp chủ đạo xuyên suốt của thơ Hàn Mặc Tử. Ngay cái việc kéo trăng và máu vào cùng một bình diện đã có lẽ là một hành động chưa từng có trong lịch sử thơ ca nói chung rồi. Đây là 4 câu tiêu biểu:

Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa
Vỡ tang thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra

Theo nhà nghiên cứu Xô Viết T. Balasôva trong chuyên khảo “Thơ Pháp thế kỷ XX” (Nhà xuất bản “Khoa học”, M. 1982) thì hiệu quả của hình ảnh kinh ngạc và phản ứng đáp trả “bất ngờ” (thuật ngữ Surprise cũng của Apôline) không phải các nhà siêu thực là những người đầu tiên tìm kiếm. Trước họ Rembô, Lôtrêamông, Apôline đã từng đòi hỏi, yêu cầu. Nhưng chỉ các nhà siêu thực mới đẩy hiệu ứng kinh ngạc đến mức gay gắt, mạnh mẽ. Ông có thể tự hào ở Việt Nam ông là ngừơi đi theo hướng này. Cố nhiên đạt được như vậy còn là do tài sử dụng ngôn ngữ của ông…
- Anh muốn nói đến sự kết hợp từ ngữ trong thơ.
- Thưa ông, đúng - sự kết hợp từ ngữ. “Có thể kết hợp mọi từ với nhau không loại trừ từ nào. Giá trị thơ ca của sự kết hợp như thế càng cao nếu nó càng võ đoán và thoạt nhìn ngỡ như không thể được” (A. Breton). Thí dụ trong thơ Pháp: “Con chuột chết nằm trong não bộ” (G. Rípmông – Đétxen), “ăn xong cái gì văng, con gấu khạc ra bộ ngực phụ nữ” (B. Pêrê), “Đồ ăn đóng đinh câu rút giống như mùa thu” (G.Acpơ). Còn đây thơ ông: “thơ như tình ái của ni cô” (huyền ảo), “nhiều hành tinh tan đi vì đã lỏng” (đôi ta), “Ngả nghiêng đồi cao bộc trăng ngủ” (Ngủ với trăng) v..v.. Thơ mới đã làm một cuộc cách tân táo bạo trong ngôn ngữ Việt Nam, ở đó có phần đóng góp không nhỏ của ông, đặc biệt trong phạm vi khả năng kết hợp từ. Và về mặt này tôi muốn nói thêm là ngay cả trong giới hạn một từ ông cũng có thể buột nối các bình diện khác nhau lại với nhau, dĩ nhiên là có dòng ngầm văn bản bên trong. Câu “đừng ngã tay mà hứng máu trời xa” (đừng cho lòng bay xa) đã nhập máu ngừơi với máu trời (những vì sao) đọc lên cảm biết thắm thía đau thương. Ví sao là máu trời quả là kinh dị và độc đáo.
Pôn Êluya viết: “Những tư tưởng và tình cảm trần trụi gây ấn tượng mạnh như ngừơi phụ nữ khoả thân. Nghĩa là cần phải lột trần chúng ra”. Thơ Hàn Mặc Tử có tính chất siêu thực cả ở điểm này nữa ông không ngại nói trần trụi nhưng vì đó là chân thực nên có tính nghệ thuật và có sức thuyết phục, truyền cảm “trời hỡi làm sao cho khỏi đói, gió trăng có sẵn làm sao ăn” - tiếng kêu nhói lòng đau đớn. Rồi bao lần ông cắn thơ, cắn trăng, nhả ra trăng, nhả ra một nàng, mửa ra huyết…, những câu thơ không hoa mỹ để lại cảm giác nhức nhối tê tái lâu dài cho người đọc.
- Tôi với anh đã thức cùng nhau gần trọn một đêm trò chuyện, trao đổi về thơ tôi. Cái chính là tôi nghe anh nói, tôi nhập hồn về đây là để làm một chứng nhân im lặng trước sự phán xét của hậu thế. Còn những cái gì tôi sinh thành từ tâm trí tôi thì đã xuất hiện và vĩnh viễn còn lại ở thế gian như chúng vốn vậy. Ông bạn thi sĩ Chàm của tôi khi còn sống đã lo cho tôi: “thế thì đọc Tử thế nào? ở miền nam trứơc kia ngừơi ta đọc Tử hoặc thấp xuống với Freud với tình dục bản năng hoặc cao lên thượng thanh khí với chúa trời, hoặc tít tắp xa ra trong thời gian, trong con đường về cái chết với Haiđêgơ và nhiều nhà triết học khác”. Anh lại muốn kéo tôi về gần Bécxômh. Thôi tuỳ, chân lý chỉcó một những lẽ phải thì có nhiếu, cứ tranh cãi đi để từ nhiều trở về một. Bây giờ xin phép anh tôi đi đây, ngày sắp rạng rồi. Tôi đi “từ sự thực đi tới bào ảnh, từ bào ảnh đi tới huyền diệu và từ huyền diệu đi tới chiêm bao. Mông lung đã trùm lên sự vật và cõi thực, bị ánh sáng của chiêm bao vây riết…” (Chiêm bao với sự thực).
- Adieu, Hàn Mặc Tử! Câu cuối cùng ông vừa nói tôi xem như một quan niệm văn học, một cách thức làm thơ riêng của ông. Và có thể coi bài thơ sau đây, nhan đề rụng rồi – như lời di chúc một đời thơ ngắn ngủi mà trường tồn cho các duyên kiếp thi nhân đang tới.
Thơ chưa ra khỏi bút
Giọt mực đã rụng rồi
Lòng tôi chưa kịp nói
Giấy đã toát mồ hôi.

4h kém 15 phút sáng 17 –11- 1990


(Nha Trang.- 1991.- Tháng 9-10 (Số 8) (1354); KHPL: BĐ.04(91))
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Ảnh đại diện

Nữ sĩ Mai Đình kể về mối tình với Hàn Mặc Tử

Đắc Trung


28 tuổi "ra đi" giữa lúc tài năng đang rộ nở, thi sĩ Hàn Mặc Tử không chỉ để lại "những vần thơ có cánh" mà còn để lại mối tình tuyệt vời với nữ sĩ Mai Đình. Đã có người viết về mối tình đầy thi cảm và đẫm nước mắt này, nhưng tài liệu có đôi phần chưa chính xác. Rất may trong một dịp từ thành phố Hồ Chí Minh, nữ sĩ Mai Đình ra du ngoạn Hà nội, tôi có hân hạnh được tiếp kiến bà tại căn phòng nhỏ bé của mình ở số 64 Bà Triệu. Trong cuộc tri ngộ quý giá ấy, tôi đã được bà kể cho nghe về mối tình của bà thời xuân sắc với nhà thơ nổi tiếng Hàn Mặc Tử...

Đã sắp qua tuổi 78, mà nữ sĩ Mai Đình vẫn giữ được những nét đẹp kiêu sa, quý phái. Mái tóc dài bạc trắng chải rất mượt, búi rất gọn. Da hồng, mắt sáng, miệng tươi, khăn hoa, áo lụa hảo hạng. Giọng nhỏ nhẹ mà đầy âm hưởng.

- Tôi sinh ra trong một gia đình quan lại nhỏ, chính quán ở Nông Cống, Thanh Hoá, nhưng thân phụ tôi lại nhận chức tại Phan Thiết. Mười sáu tuổi tôi đã theo sống bên cha và được cha hết mực cưng chiều. Tôi mê đọc sách, đặc biệt Đường thi. Tâm hồn đẫm thơ văn. Một lần trên mục Văn chương tờ "Sài Gòn" tình cờ tôi đọc được bài "Thức khuya" của Hàn Mặc Tử. Chất thơ, hồn thơ, tâm trí lự của tác giả làm tôi say, tôi cảm. Không hiểu sao cái tên Hàn Mặc Tử cứ án ảnh tôi hoài và từ đó tôi cố ý tìm đọc hàng loạt những bài khác của thi nhân này. Bài nào tôi cũng cảm thấy hay, thấy xúc động và trong tôi bỗng thấy hình thành bóng dáng một thi sĩ Hàn Mặc Tử thật tuyệt vời. Cũng từ đấy dường như có sự kỳ diệu nào thôi thúc tôi quyết định gửi những bản thảo thơ của mình cho mục Văn chương của tờ "Sài Gòn" cùng những niềm huy vọng rất mơ hồ, rất khó giải thích, bởi tôi biết rằng trong Ban Biên tập của tờ báo đáng kính đó có Hàn Mặc Tử... Thế rồi tôi nhận được thư anh. Lời thư thật tao nhã cao sang. Anh nói rằng anh thật sự xao xuyến trước vẻ đẹp và sự tinh tuý của những bài thơ tôi viết với một bút danh rất mới: Mai Đình và anh lần lượt cho đăng. Dường như tiền định, hai tâm hồn thơ gặp nhau cảm trọng, mến mộ nhau, chỉ qua thư từ trao đổi thôi chứ chưa hề gặp mặt, vậy mà đã rất ý hợp tâm đồng.
Năm 1937, trong chuyến đi từ Thanh Hoá vào Phan Thiết, ngồi trên ô tô, tôi nghe mấy người bạn đồng hành trò chuyện. Họ nói về Văn chương, đặc biệt nhắc nhiều tơi Hàn Mặc Tử. Qua câu chuyện của họ tôi được biết hiện tại Hàn Mặc Tử đang ở Quy Nhơn. Bỗng nhiên trong đầu tôi nẩy ra ý định ghé Quy Nhơn thăm anh. Nhưng mà... phần e ngại mình là thiếu nữ con nhà gia giáo lại tự tìm đến một người con trai. Mà người đó mình chưa hề gặp mặt. Biết anh ở chỗ nào trong cái thành phố rộng lớn đó? Chẳng lẽ làm quen rồi hỏi thăm mấy người trên xe ư? Đâu có được. Tôi chợt nhớ ra được ở Quy Nhơn có một người bạn thơ. Đó là anh Trần Thông. Vợ chồng anh rất mến tôi. Ghé qua thăm anh chị đó rồi tính... Vợ chồng anh Thông đón tiếp tôi niềm nở. Trong câu chuyện tôi làm như đã quen biết Hàn Mặc Tử lắm và hỏi anh chị đó rằng hình như Hàn Mặc Tử đang ở Quy Nhơn, tôi muốn tới thăm ảnh. Cả anh chị đều buồn bã. Chị nói rằng Hàn Mặc Tử đang bệnh nặng, không nên tới. Tôi hỏi anh bệnh gì, tại sao lại không nên, trong lúc anh hoạn nạn thế cần tới thăm mới đúng chứ. Lát sau chị nói cho tôi hay rằng Hàn Mặc Tử mắc bệnh cùi, hiện ở nhà riêng tại số 20 đường Khải Định, anh từ chối mọi người, không muốn tiếp xúc với ai. Tôi đắn đo. Nhưng chiều đó tôi vẫn một mình tìm đến nhà anh. Căn nhà nhỏ nằm khiêm tốn đến vắng lặng. Tiếp tôi là một thanh niên tên là Hiếu, em trai của Hàn Mặc Tử, biết ý định của tôi, Hiếu tỏ ra cảm thông, nhưng gương mặt đợm buồn. Hàn Mặc Tử nằm trong buồng kín, nghe Hiếu vào nói lại, anh bảo Hiếu ra cho tôi hay rằng, anh rất cảm động về việc tôi tới thăm, nhưng anh bệnh không ra tiếp được, mong tôi hiểu cho, hẹn dịp khác tri âm. Tôi ra về lòng ngùi ngùi thương cảm. Ngay chiều gần tối hôm đó, trước khi tôi lên tàu vào Nam thì anh Nguyễn Minh Vỹ tìm gặp. Anh Vỹ đưa tôi tập "Gái quê", nói rằng Hàn Mặc Tử nhờ chuyển. Mở ngay ra coi và tôi rất xúc động về dòng chữ Hàn Mặc Tử đề tặng tôi. Lên tàu tôi liền đọc một mạch hết tập thơ của anh. Qua thơ anh, tôi càng cảm mến anh. Xúc động tôi viết ngay bài "Biết anh".

Tàu đến Nha Trang tôi xuống, tìm đến thăm anh Quách Tấn, một nhà thơ có tiếng bấy giờ. Anh em lâu ngày gặp nhau mừng lắm. Tôi kể lại việc đến thăm Hàn Mặc Tử, tất nhiên khoe với anh tập thơ "Gái quê" Hàn Mặc Tử mới tặng tôi. Vốn là bạn thân với Hàn Mặc Tử, anh kể cho tôi nghe nhiều chuện về Hàn Mặc Tử. Chẳng hạn tên thật của Hàn Mặc Tử là Nguyễn Trọng Trí. Ngoài bút danh Hàn Mặc Tử anh còn những bút hiện khác như: Phong Trần, Lệ Thanh, Minh Duệ Thị. Về bút danh Hàn Mặc Tử nguyên trước là Hàn Mặc Tử có nghĩa bức rèm lạnh. Anh Quách Tấn có lần bảo: "Đã có rèm thì thêm bóng nguyệt vào. Hỏi còn cảnh nào nên thơ hơn". Nhà thơ hiểu ra, gật đầu và thay chữ ả vào chữ a thành Hàn Mặc Tử, có nghĩa là Chàng Bút Mực. Nâng niêu tập "Gái Quê" trên tay. Anh Quách Tấn nói rằng Hàn Mặc Tử cũng tặng anh một tập nhưng một người bạn đang mượn. Anh muốn viết một bài về tập "Gái quê" của Tử mong tôi cho anh mượn vài ngày. Tôi bằng lòng đưa anh, nhưng bẳng quên trong đó có kẹp bản thảo bài thơ "Biết anh" tôi làm tặng tác giả "Gái quê". Trong bài ấy có mấy đoạn:

Còn anh em đã gặp anh đâu
Chỉ cảm thấy thơ có những câu
Âu yếm say sưa đầy cả mộng
Xui lòng tơ tưởng lúc đêm thâu...
...
Mộng hồn em gửi theo chiều gió
Để em gần anh ngỏ ít lời

Chẳng hiểu nghỉ cách nào mà Quách Tấn chép liền bài thơ đó gửi ra Quy Nhơn cho Hàn Mặc Tử. Đọc "Biết anh" của tôi, Hàn Mặc Tử làm đáp lại ngay bằng bài "Lưu luyến" (nữ sĩ Mai Đình nheo nheo mắt, cười rất tươi. Tôi thấy bà trẻ lại như thời con gái). Tôi "chết" ở bài "Lưu Luyến" này đây:

Chửa gặp nhau mà đã biệt ly
Hồn anh theo dõi bóng em đi
Hồn anh sẽ nhập trong hồn gió
Lưu luyến bên em chẳng nói gì
Thơ em cũng giống lòng em vậy
Nghĩa là thơm tho như ánh trăng
Mềm mại như lời tơ liễu rủ
Âm thầm trong ánh gió băn khoăn...

Vậy là "Biết anh" và "Lưu luyến" đã nói lên nỗi lòng của hai chúng tôi, từ đó chúng tôi thư từ cho nhau, gắn bó với nhau như cặp tình nhân trong mộng.

Sau đó tôi rời Phan Thiết vào Sài Gòn. Hàn Mặc Tử vẫn ở Quy Nhơn. Đầu năm 1939 tôi mới có dịp ra thăm anh. Lại tìm đến nhà anh ở 20 Khải Định. Nhưng lần này lòng tôi ngậm ngùi buồm tê tái. Anh không còn ở đây nữa. Bệnh cùi tàn phá cơ thể anh, vi trùng đã ăn lên đến mặt. Gia đình khánh kiệt để lo chạy chữa, nhưng bệnh tình anh không giảm. Chính quyền thành phố bắt đưa anh vào bệnh viện cùi Quy Hoà. Thân mẫu anh mếu máo nói cho tôi hay, khiến tôi không cầm nổi nước mắt. Thương anh gia đình giấu anh ở một nơi kín đáo dưỡng bệnh. Đó lá Gò Bồi. Gò Bồi nằm phía Tây thành phố Quy Nhơn, một khu cát rộng, trên đó là những túp lều cỏ sơ sài của những người nghèo khổ bần cùng đói rách. Muốn ra đấy phải lội bi bõm nước ngập lưng bắp chân, rồi đạp trên cát bỏng dưới nắng hè chói chang. Tôi xin phép bà cụ ra thăm Hàn Mặc Tử. Cụ bằng lòng và một chú bé dẫn tôi ra Gò Bồi. Đến trước túp lếu tranh xơ xác xiêu vẹo, chú bé bảo tôi dừng lại. Vén tấm màn che cửa, chú bé ra hiệu tôi chui vào. Một người đàn ông nhỏ bé, gầy yếu ngồi trên chiếc giường chõng, cạnh bàn viết. Bàn là một tấm gỗ thùng đặt trên một khung chân cũ. Người đàn ông ngước đôi mắt đen sáng long lanh nhìn tôi dò hỏi. Tôi đứng lặng đi. Hàn Mặc Tử đấy ư. Thật xa lạ với một thi sĩ mà tôi hằng tôn thờ trong mộng tưởng. Anh ốm yếu, tàn tạ, da mặt sần sùi, chỉ có đôi mắt làm tôi sững sốt: sáng như hai ngôi sao, đầm thắm, thông minh và có sức cám dỗ diệu kỳ. Từ đôi mắt ấy toát ra thứ ánh sáng huyền diệu, khiến tôi bỗng thấy thương, yêu anh vô cùng. Tôi nhìn xoái vào mắt anh, khẽ nói nhỏ chỉ đủ anh nghe: "em là Mai Đình đến thăm anh đây... Vâng, Mai Đình đây". Anh chằm chằm nhìn tôi không nói và từ đôi mắt ấy bỗng rưng rưng lệ. Tôi buớc đến gần định ngồi xuống bên anh, nhưng Hàn Mặc Tử vội lắc đầu xua tay. Tôi hiểu vì trên đường ra đây chú bé có kể cho tôi hay rằng từ khi lâm chứng bệnh nan y này. Hàn Mặc Tử hết sức giữ gìn. Anh không bao giờ bắt tay ai, không để ai đến gần, khi giao tiếp, luôn giữ khoảng cách xa để bệnh tình của anh không lây sang người khác. Phút xúc động lặng xuống, chúng tôi bình tĩnh ngồi tâm sự với nhau. Càng trò chuyện càng tâm đồng ý hợp, chúng tôi nói về những người bạn mà cả hai chúng tôi đều quen, nói chuyện văn thơ, chuyện đạo, chuyện đời...

Từ ấy cứ mỗi lần thu xếp được công việc tôi lại từ Sài Gòn ra thăm anh, cố gắng được gần anh nhiều hơn. Vốn liếng tư trang chẳng đáng bao nhiêu, tôi cũng bán đi để có chút tiền đem ra chăm sóc anh. Chúng tôi ngồi suốt ngày say sưa đàm đạo, làm thơ xướng hoạ, quên cả nắng nóng như dội lửa, quên đói, quên khát. Lúc ấy Hàn Mặc Tử rất vui. Những bài thơ xướng hoạ, những bài thơ chúng tôi cùng làm, bài nào cũng dạt dào xúc cảm. Tôi chép vào một tập. Hàn Mặc Tử bảo tôi đặt tên. Tôi đặt là "Đôi hồn". Hàn Mặc Tử gật đầu bằng lòng. Có thể nói chúng tôi yêu nhau say đắm. Đó là mối tình hoàn toàn trong sạch. Trọng nhau về đức, về tài, cảm phục nhau về thơ mà yêu chứ thậm chí cầm tay nhau cũng không. Lần đó ra thăm bệnh tình anh càng nặng hơn, sức khoẻ suy sụp. Nhìn anh tôi không cầm nổi nước mắt. Tôi bảo anh hay là anh cứ đi bệnh viện Quy Hoà tôi sẽ nghỉ việc theo anh ra đó chăm sóc anh, không muốn tôi phải khổ vì anh. Hôm sau, tôi chia tay anh về Sài Gòn. Và, đâu có ngờ rằng đó là lần gặp cuối cùng giữa hai chúng tôi.
Nữ sĩ Mai Đình lặng đi, lát sau tôi dè dặt hỏi:

- Thưa bác, vậy bản thảo tập "Đôi hồn" bác còn lưu giữ được không?
- Còn, tôi vẫn giữ, vẫn thuộc nữa
- Giá mà...

Hiểu ý tôi bà nói luôn:

- Đã có người đến mượn, đến xin, đòi mua với giá đắt nữa, nhưng tôi từ chối. Bởi với tôi đó là những kỷ niệm vô gía thiêng liêng với Hàn Mặc Tử, không muốn chia sẻ cùng ai.


(Nhân dân hàng tháng.- 1997.- Số 6 (tháng 10) (1358); KHPL: BĐ.04(91))
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Ảnh đại diện

Một nét Huế trong thơ Hàn Mặc Tử

Phương Thuận


Nói đến Huế, ta lại nhớ về thôn Vĩ Dạ, địa danh đã khơi nguồn cho thơ Hàn Mặc Tử. "Đây thôn Vĩ Dạ" là bài thơ "thuần tuý Huế, tinh khiết Huế" đã bộc lộ rất rõ cuộc sống con người, cảnh vật của một xứ Huế đẹp và thơ mộng
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Một thôn Vĩ Dạ với những cảnh sắc rất xinh đẹp, hấp dẫn, nên thơ, cái ảo và cái thực xen kẽ nhau trong từng hình tượng. Ở đây hiện ra những gì bình dị quen thuộc của quê hương, ánh nắng hồng sớm mai và sắc xanh của cây lá tạo một sự hài hoà rất độc đáo cho bức tranh cảnh. Hình ảnh so sánh "xanh như ngọc" mang tác dụng biểu cảm sâu sắc, gợi nên những hình ảnh khác nhau về thôn Vĩ Dạ. Những ngôi nhà ở Vĩ Dạ thường được xây cất, bài trí hài hoà với vườn cây, trong một cấu trúc thẩm mỹ khéo léo giữa nhà và vườn. Có lẻ cảnh đẹp ấy đã tạo thành chất liệu cho ấn tượng về thôn Vĩ đẹp và nên thơ.
Nhưng Vĩ Dạ hiện lên không chỉ đẹp ở cảnh, mà còn ở con người: khuôn mặt chữ điền ấy đã là sự biểu thị cho những gì chân chất, phúc hậu của con người xừ Huế. Hàn Mặc Tử chắc đã phải hiểu xứ Huế đến mức nào và nặng tình với nơi ấy đến làm sao mới thể hiện được sự gắn bó hài hoà giữa cảnh và người đến như vậy, nhưng đồng thời cũng làm hiện lên được tính cách kín đáo, e ấp của người dân nơi đây. Thật thú vị khi trong thơ Hàn, hai ranh giới giữa thế giới ảo và thực đã bị xoá nhoà đi.
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bấp lay
Câu thơ duy nhất gợi nhớ đến nhịp địêu cuộc sống Huế. Cái buồn nhè nhẹ, mêng mang mênh mang cứ thấm dần vào tận đáy lòng ai và cái nét "trầm tư chẳng nơi nào có được ấy" chính là cái cũng rất đặc trưng cho Huế. Thế rồi ta không còn nhận ra được đâu là thực và đâu là ảo nữa. Vừa mới nắng đấy, bây giờ ánh trăng đã tràn đầy:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Một dòng sông thực, một con đò thực, một bến đò thực đã chuyển hoá thành dòng sông thơ, con thuyền thơ và bến đò thơ.
Những câu thơ như vậy thật không thể phân tích, bình luận một cách thực thà vì e rằng làm tan mất con thuyền chở trăng trên sông trăng về với bến trăng. Hàn Mặc Tử đã gửi gắm tình yêu, nổi ngóng đợi trông chờ tình yêu vào con thuyền trăng trên bên sông trăng-một ý thơ độc đáo và tài hoa. Tình yêu ở đây nhẹ nhàng, kín đáo làm sao.
Cảnh chiều xứ Huế hiện lên trong những câu thơ cuối cùng với hình ảnh con người xứ Huế đã bị sương khói đẩy ra xa hơn, như mơ như thực, như mờ như hiện. Thiếu nữ với tà áo trắng trong phất phảng sương khói ấy trở thành cái gì đó xa vời, khó với tới, cái tình người có ở đây không mãnh liệt, nồng cháy bao nhiêu thì lại càng thi vị bấy nhiêu.
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong số ít những bài thơ của Hàn Mặc Tử viết về Huế với tình cảm trong sáng và sâu nặng đến như vậy. Bài thơ thể hiện được những nét đẹp của người và cảnh xứ Huế vào những thời khắc khác nhau. Tình người và tình đời hoà quyện với thiên nhiên tạo nên một nét độc đáo đầy cảm xúc về con người thôn Vĩ Dạ của Huế mộng mơ và nên thơ

Đây thôn Vĩ Dạ
Hàn Mặc Tử
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bấp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Aùo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?


(Quê Hương.- 1999.- Số 4 (2029); KHPL: BĐ.04(91))
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Ảnh đại diện

Thơ, nhà thơ, nghề thơ trong quan niệm của Hàn Mặc Tử

Phan Quỳnh Nga


Hàn Mặc Tử (1912-1940) là nhà thơ độc đáo đến kỳ lạ và kinh dị. Một nhà thơ như vậy hẳn phải có một quan niệm đặc biệt về thơ và những gì liên quan đến thơ.

1. Về thơ

- Hàn Mặc Tử đã có một quan niệm rất khác thường (1)Trước hết, sự khác thường thể hiện ở chỗ "không giống Baudelaire lắm", có nghĩa là có giống nhưng không giống hoàn toàn, vẫn có chỗ khác Baudelaire. Vậy, khác và giống về điểm gì?
Nếu Baudelaire lấy passion (2) làm cảm hứng cho thơ thì Thơ duyên đã thấm thía những tình cảm rất nồng rất say sưa "ngất đi vì khoái lạc", bởi nó là "tinh lực của hồn, của máu" được "phát tiết" ra. Trong lúc đó, như ông đã nói tình cảm (enthousiaasme) là sự tinh lọc hồn nhiên không một chút gì bợn nhớ, tội lỗi", còn "dục tình là cả một ham muốn ngoài điều răng của Đức Chúa Trời". Ta hiểu điều ông nói, dục thì nghiêng về những ham mê bản năng, tinh cảm nghiêng về những rung động tinh thần rất thanh sạch. Có điều, với Budelaire, dục tình ấy và với Hàn Mặc Tử tình cảm ấy có chung một cấp độ rất cao: tột cùng, đỉnh điểm.
Nếu Budelaire cho "thơ chỉ là thơ" "không thể dung hoà khoa học hay luân lý", "không thể lấy chân lý làm chủ đích được", thì với Hàn Mặc Tử, "sở dĩ thơ văn được phong phú dồi dào phát triển hết cả anh hoa huyền bí và vượt lên những tầng biên giới tân kỳ mới lạ cũng nhờ khoa hoạ điểm xuyết. Còn luân lý tiêu chuẩn cho văn thơ, không có nó thì thơ văn chẳng ra cái mùi mẫn gì cả. Nếu để thơ văn tồn tại một mình, thơ sẽ lạc lẽo vô duyên, không có phong vị gì"-"văn thơ không phải bởi không mà có"
Phải chăng Hàn Mặc Tử muốn nhấn mạnh văn thơ bởi có mà có. Nhờ cái có thứ nhất mà cái có thứ hai thơ mới tồn tại, cái có thứ nhất ấy theo ông là Đức Chúa Trời.
- Đức Chuá Trời làm chân lý, làm tiêu chuẩn cho văn thơ "Đức Chúa Trời là "cái thơ trên cái thơ khác".
Rõ ràng, như ông nói ý kiến của Budelaire là "trái ngược với lẽ tự nhiên", trái ngược với trật tự vật chất-tinh thần, khách thể-chủ thể. Với Hàn Mặc Tử, chúng ta thấy, quan niệm thơ của ông thuận tự nhiên hơn: Đức Chúa Trời vừa là điểm xuất phát-cội nguồn, vừa là đích đi tới-tiêu chuẩn của thơ.
Điều quan trọng là "Đức Chúa Trời" với Hàn Mặc Tử, suy cho cùng, không còn nguyên vẹn là một khái niệm, một hình ảnh tôn giáo nữa, mà nó phải chăng là tạo hoá, cõi thế gian đầy trăng, hoa, hương... đã gắn bó gần gũi, chở che và an ủi đời ông?
Từ cái giống và cái khác Budelaire được ông phát biểu như trên và từ thơ của ông nữa, chúng ta thấy cụ thể hơn về quan niệm thơ của Hàn Mặc Tử.
Hàn Mặc Tử cho thơ từ "cõi tâm linh" thoát ra ngoài, mãnh liệt cuồn say, thơ "từ nội tâm vọt ra mà bay lên", là "tiếng kêu rên thảm thiết của một linh hồn thương nhớ ao ước trở lại Trời, nơi đã sống ngàn kiếp vô thuỷ vô chung với những hạnh phúc bất tuyệt". Với ông thế giới tâm linh ấy "vô cùng, vô tận, vô ảnh, vô hình", cho nên, vườn thơ ông "rộng rinh vô bờ bến".
Xuân gấm đầu tiên giữa cõi đời
Mùi thơm ngây dại sóng con ngươi
Hay hoan hô lời cao như sấm:
-Vạn tuế, bay ơi! Nắng rợm trời!
(Xuân đầu tiên)
Hàn Mặc Tử cho thơ cần có nhạc và hoạ:
Ta sống mãi cùng trăng sao gấm vóc,
Trong nắng thơm, trong tiếng nhạc thần bay
(Trường thọ)
Thật "sáng láng, phương phi như một mùa xuân như ý".
Hàn Mặc Tử cho thơ cần lãng mạng và siêu thoát:
Thơ bay rồi thơ bay...
Mau gò giai âm lại
Sớt bớt nghĩa đang say
(Điềm lạ)
Hàn Mặc Tử từng khẳng định: "Trí người đã dâng cao, thơ người dâng cao hơn nữa, thì ra người đang say sưa, đi trong mơ ước, trong huyền diệu, trong sáng láng và vượt khỏi ra ngoài hư linh". Chính bởi vậy, có nhà phê bình nhận xét: "hơn hết cả thi hào trên thế giới, Hàn Mặc Tử phóng thoát cái bản năng loài người để mà ăn nhập vào với vũ trụ, để biến thành một hiện tượng của vũ trụ" (Trần Thanh Mai).
Hàn Mặc Tử cho thơ là "thánh ca" chiêm ngưỡng Đấng chí tôn-cõi thế gian-cuộc sống:
Lòng vua chúa cũng như lòng lê thứ
Sẽ ngây ngất bởi chưng thơ đấy ứ
Nguồn thiên liêng yêu chuộng mẹ Sầu Bi
Phượng trì! Phượng trì! Phượng trì!
(Thánh nữ đồng trinh Maria)

2. Về nhà thơ

Hàn Mặc Tử từng có quan niệm thơ "rất khác thường", nên tất yếu có quan niệm thi sĩ "không phải là người thường mà là "người thơ phong vận như thơ ấy" ngoài "thiên thần và loài người ta, Đức Chúa Trời cho ra đời một loài thứ ba nữa: loài thi sĩ-loài này là những bông hoa rất quý và rất hiếm, sinh ra đời với một sứ mệnh thiên liêng: phải biết tận hưởng những công trình châu báu của Đức Chúa Trời đã gây nên, ca ngợi quyền phép của Người và trút vào linh hồn Người là những nguồn khoái lạc đê mê, nhưng rất thơm tho, rất ngoan sạch", "phải đi khơi mạch thơ ở Đức Chúa Trời".
Như vậy, nghệ sĩ đã được đặt tên được xưng danh thật sang trọng, thật khác thường: "loài thi sĩ", "người thơ", vị "khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo" để hưởng cái niềm vui hơn người đó là đã "ngất ngư trong khi nuốt hết khí vị thanh tao của mùa xuân ấm, của tất cả những lương thực thật ngon ngọt mỹ vị làm bằng hương báu, làm bằng nhạc thiên, làm bằng rượu say, làm bằng châu lệ của thế gian, nếm mãi chưa bưa - chưa ớn. Chưa hả hê chút nào". Thế nhưng, ông đã nói rất đúng, có được cái niềm vui ấy, người thơ "phải trả bằng giá máu", phải "rơi xuống cõi đời bơ vơ, bỡ ngỡ lạ lùng, không có lấy một người hiểu mình". Thi sĩ đi tìm tri kỹ mãi mà vẫn kêu rên thảm thiết, bởi lẽ "không bao giờ tìm đặng"
Với Hàn Mặc Tử, "người" thơ là người sung sướng nhất bởi có năng lực, sự tinh nhạy, niềm si mê hơn người khác trong cản nhận những châu báu của thế gian do Đức Chúa Trời đem lại, cũng là ngừơi đau khổ nhất, bởi ham muốn tột bậc, ham muốn suốât đời tìm gặp người tri kỷ mà không bao giờ gặp hoàn toàn, không bao giờ được ôm trọn vẹn. Với Hàn Mặc Tử nếu thơ được làm bằng "hai mặt: lạc quan và bi quan thì "người thơ cũng vậy", sung sướng tột cùng, đau khổ tột cùng, vượt lên trên thiên hạ, vượt ra ngoài hư linh. Cho nên, sung sướng và đau khổ là hai mặt của hạnh phúc được sáng tạo của nhà thơ.
Cũng chính vì vậy, với Hàn Mặc Tử, "người thơ" đã là xứ giả của trời và đất, là chất kết dính, là đường dây nối liền mối liên hệ giữa Đức Chúa Trời với thiên hạ.
Suy cho cùng, qua quan niệm về "người thơ đã nêu ở trên Hàn Mặc Tử cho ta rõ một mô hình thơ: Đức Chúa Trời-người thơ-người ta (cả và thiên hạ). Đức Chúa Trời, như đã nói ở trên, phải chăng là cuộc sống, và "người ta" chính là bạn đọc?
3. Về nghề thơ
"Hàn Mặc Tử nói: Làm thơ tức là điên" (Chế Lan Viên- Tựa Điêu tàn). Chúng ta hiểu với Hàn Mặc Tử điên đồng nghĩa với khác thường, phi thường mà trước tiên thuộc số mệnh, danh dự và thiên chức của người thơ, sau nữa, thuộc cơn đau sáng tạo.
Thơ là nghệ thuật thuộc phương thức trữ tình, chủ yếu bộc lộ thế giới nôi tâm của nhà thơ trước cuộc sống. Vì thế "thơ khởi phát tự lòng người" (Lê Quý Đôn) muốn làm thơ "hãy xúc động cho ngòi bút có thần" (Ngô Thì Nhậm). Như vậy, thơ là tiếng nói của tình cảm nhưng tình cảm phải đến độ cháy bỏng mới thành thơ. Hàn Mặc Tử tiếp tục khẳng định một cách "phi thường", tiếp tục làm rõ độ cháy bỏng ấy của tình cảm khi nhà thơ cảm nhận và thể hiện của cuộc sống – khi làm thơ: ‘Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui buồn giận hờn đến gần đứt sự sống", "Khi ngòi bút tôi đã thấm nhuần những ý nghĩ cao cường, truyền sang bởi điện tinh truyền của của trí tuệ, tôi phơi lên mảnh giấy thanh sạch này những tình cảm nóng ran, tràn trề và thơm lựng", "Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng... nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ, tôi phản bội lại tất cả những gì lòng mà tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật...Nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên... Tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú". Nghĩa là:
Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút,
Mỗi vần thơ đều dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
Như mê man chết điếng cả làn da.
(Rướm máu)
Quả thật, Hàn Mặc Tử đã dựng lại được quá trình đã làm thơ, một quá trình khó khăn phức tạp, căng thẳng, tràn đầy những cảm xúc và suy tư trái ngược, xô đẩy níu kéo, dằn co nhau-một sự thống nhất đầy mâu thuẫn giữa tình cảm và lý trí, giữa "chiêm bao và cõi thực" của nhà thơ. Đó là một quá trình, như có người nói "lên đồng", "nhập thần" và như Hàn Mặc Tử nói: "phát điên", "khóc", ‘gào", "rú"... của nhà thơ. Quá trình này càng mãnh liệt sâu sắc thì trang viết càng giàu chầt thơ. Như vậy, Hàn Mặc Tử hiểu rõ cơn đau-làm thơ, cơn đẻ ra những trạng thái kỳ lạ, tạo nên những xung đột chưa từng có, sự phi thường từ cái bình thường nhất.
Đã có biết bao nghệ sĩ viết về cơn đau sáng tạo của mình. Nhưng có thể nói, chưa một ai đau nổi đau này một cách cực điểm, quằn quại tâm hồn, vật vã thân xác-cái đau mang "tầm vũ trụ" như Hàn Mặc Tử. Nhà thơ đã từng bọc bạch: "như có ma lực vô song xô tôi đến bờ huyền diệu... không cầu nguyện nữa mà lòng tôi rực lên cảm hứng... ngoại cảnh đã xâm lấn xác thịt và linh hồn tôi. Bao nhiêu là tinh anh của non sông đều xông vào tôi rút hết tình tiết của tôi. Tôi có thể bảo đấy là một lối thần giao cách cảm-mà ngoại cảm hay thâm tâm đồng xáo động, bởi dây khoái lạc vô ngần. Và, có thể say mê đến điên dại bắt chước Lý Bạch... vồ trăng trên mặt nước".
Với Hàn Mặc Tử, làm thơ, ấy là lúc thần trí thi sĩ thăng hoa, bay tản đi chỉ còn lại linh hồn trong "cõi mộng", nơi "cực lạc giới", nơi "suất thế gian", để từ nơi ấy "toàn thân thi sĩ rung động như một sợiï đường tơ". "Sợi đường thơ" ấy xuất hiện trong chiêm bao-cõi ảo mà rất thực. Bởi lúc ấy, như Hàn Mặc Tử đã nói "có ai nhìn thấy hai hàng nước mắt rưng rưng của tôi không?".
Thế là ta đã rõ "chiêm bao rã rời trong khi ánh sáng sự thực rọi tới. Bây giờ, ngoại cảnh và nội tâm điều hoà rung lên những nhịp tiêu thiều thanh bai..." "nhịp tiêu thiều thanh bai" là thơ đó. Thơ đi ra từ "chiêm bao và sự thực", vai trò của chiêm bao-vô thức, nơi lý trí của con người không kiểm soát được, trong khi làm thơ, với Hàn Mặc Tử quan trọng biết nhường nào. Không có vô thức, thơ ông không ra đời được, và, nếu có xuất hiện thì không còn là thơ như thơ ông mà ta đang có. Chính vì có cõi chiêm bao, thơ ông mới trở nên kỳ ảo: đi ra từ tâm linh, có nhạc và hoa, có lãng mạng và siêu thoát, có âm vọng thánh kinh.
Tóm lại thơ, người thơ, nghề thơ trong quan niệm của Hàn Mặc Tử, ở phương diện nào cũng đều là sự tiếp tục quan niệm mỹ học của Đông-Tây, xưa-nay. Thế nhưng "sự khác thường" trong quan niệm về thơ "không giống người thường" trong quan niệm về thơ, "tức là điên" trong quan niệm về làm thơ của Hàn Mặc Tử đã ở một cấp độ riêng, rất Hàn Mặc Tử; cấp độ tột cùng, đỉnh điểm, cấp độ vô biên, tuyệt đích. Cấp độ này đi ra từ ba biển lớn đầy giông bão của đời ông: bệnh tật, tình duyên và "cách mạng mà ông không tự biết là cách mạng" (Chế Lan Viên)


(1) Từ đây nếu không có chú thích rõ thì những đoạn trích là của Hàn Mặc Tử, được lấy từ các bài văn xuôi như Thơ, Quan niệm thơ, Chiêm bao và sự thực… và một số bài thơ.
(2) Dục tình

(Văn nghệ quân đội.- 1999.- Tháng 3 (2026); KHPL: BĐ.04(91))
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Ảnh đại diện

Những năm tháng đau đớn của Hàn Mặc Tử

Phan Cao Toại


Mãi đến năm 1941, y học mới phát hiện DDS, thuốc đặc hiệu điều trị bệnh phong. Tuy nhiên trong bệnh phong, dù không được điều trị hay điều trị muộn, người bệnh vẫn không chết vì bệnh này mà chỉ bị tàn phế tay chân hoặc ở mặt. Tiếc rằng Hàn Mặc Tử đã phạm sai lầm khi sử dụng các loại thuốc có nhiều độc chất. Ngày nay, không còn là tứ chứng nan y và hy vọng sẽ bị tiêu diệt vào năm 2000. Người viết bài này là một thầy thuốc đã nhiều năm làm việc với bệnh nhân phong, mang chút hiểu biết ít ỏi của mình trình bày cùng bạn đọc và cũng xin xem đây là nén nhang tưởng nhớ thi sĩ tài ba Hàn Mặc Tử.

Cho đến nay, sau năm mươi tám năm ngày mất của thi sĩ tài hoa nhưng bạc mệnh Hàn Mặc Tử, nhiều người vẫn chưa hiểu tường tận về căn bệnh cũng như cái chết thương tâm của nhà thơ. Các tài liệu để lại nói về quãng đời của ông thật ít ỏi và cũng không nhất quán. Song, có một điều có thể khẳng định được, thời gian phải sống trong bệnh tật ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sáng tác của ông. Vậy Hàn Mặc Tử đã mắc bệnh gì, quá trình chữa trị ra sao và cuối cùng chết vì nguyên nhân gì. Căn cứ vào những tài liệu có được ở Bệnh viện phong Quy Hoà (Quy Nhơn), nơi nhà thơ trút hơi thở cuối cùng, qua tiếp xúc với ông Nguyễn Bá Trí em ruột nhà thơ, ông Nguyễn Văn Xê bạn bệnh và nữ sĩ Mai Đình, bạn thơ một thời của Hàn có thể đi đến kết luận: Hàn Mặc Tử mắc bệnh phong nhưng lại chết vì suy kiệt.
Dựa trên cơ sở khoa học về bệnh phong, thời gian ủ bệnh của bệnh này vào khoảng sáu năm (có thể dài hơn). Hàn Mặc Tử bị nhiễm bệnh này vào khoảng 1929-1930. Trong gia đình Hàn từ trước cho đến thời gian Hàn bị bệnh không có ai mắc bệnh này, như vậy là Hàn đã bị lây từ một nguồn lây nào đó. Bệnh phong không di truyền, khó lây nhưng vẫn là bệnh truyền nhiễm. Vì thời gian ủ bệnh khá lâu nên khi xuất hiện những dấu hiệu đầu tiên của bệnh, phải hiểu rằng người bệnh đã bị nhiễm bệnh khá lâu trước đó. Trong thời gian ủ bệnh, dĩ nhiên có sự biến đổi đáng kể về tâm sinh lý. Sự biến đổi này ở Hàn Mặc Tử được ông Nguyễn Bá Tín mô tả: "Anh thay đổi cả tâm tính lẫn hình thể, sống nội tâm xa vắng...", và vì có những chuyện buồn trong gia đình (anh ruột Hàn bị chết vì tai nạn, gia đình đang trong tình trạng túng quẫn), Hàn rơi vào tình trạng buồn bã, u sầu, luôn luôn bị ám ảnh bởi những nỗi đau nhân thế. "Càng bị ám ảnh nặng nề hơn khi nghe tin thiếu nữ từng hoà đàm với tôi vì chuyện buồn của gia đình mà quyên sinh..." (Nguyễn Bá Tín, Hàn Mặc Tử, anh tôi) Ông sống trong những ảo ảnh kỳ lạ, tràn đầy yêu thương và đau xót. Cảm giác bay bổng đó có thể hiểu như là một thể nhẹ của bệnh tâm thần và nhờ sống trong hoàn cảnh đó, Hàn Mặc Tử đã xuất thần cống hiến cho đời những áng thơ hay. Tình trạng tâm lý này còn diễn biến suốt quá trình bệnh lý của Hàn Mặc Tử.
Có người nói, sở dĩ Hàn mắc bệnh phong vì có lần ông đi chơi với Mộng Cầm ở Phan Thiết bị mắc mưa, phải trú vào một chòi tranh trong nghĩa địa gần một ngôi mả mới. Quan niệm này không đúng bởi lẽsự thối rửa của xác chết không phải là nguyên nhân gây bệnh phong.
Sau khi có những biểu hiện của bệnh phong, khoảng đầu năm 1935, gia đình Hàn rất lo lắng, liền mời một ông thầy đông y đến bốc thuốc. Ông này chẩn đoán Hàn bị bệnh phong và nói rằng trong máu có chất độc. Lúc bấy giờ, bệnh phong bị xếp vào tứ chứng nan y: phong, lao, cổ, lại. Bệnh phong ở đây gồm một khái niệm rất rộng và mơ hồ từ những biểu hiện nhẹ trên da như nổi mề đay, ngứa ngáy cho đến bệnh phong (Lèpre) do vi khuẩn Hanxen gây nên. Cho nên, ông thầy đó chỉ cho một liều mười thang bổ huyết khu phong, một liều thuốc không hề có tác dụng diệt khuẩn mà có tác dụng giải mẫn cảm nên bệnh tình của Hàn không thuyên giảm.
Mặc dù biểu hiện cuả bệnh phong khá rõ như hai tai, thuỳ châu bắt đầu song đỏ, nhưng Hàn vẫn cảm thấy bình thường. Thêm một điều nữa khiến nhà thơ không lo lắng gì về bệnh tật của mình, đó là việc ông Bửu Đông lấy máu ở tai xét nghiệm nhưng không có vi khuẩn Hanxen. Điều này cũng khá phù hợp với diễn biến của bệnh phong trong giai đoạn đầu. Có thể vào thời điểm đó, Hàn bị bệnh phong thể BT, thể có ít vi khuẩn. Muốn xác định thể này, ngoài xét nghiệm tìm vi khuẩn còn phải xét nghiệm tế bào học.
Giữa lúc bệnh tình bộc phát, Hàn cho xuất bản tập Gái quê và nhận lời làm chủ biên cho tờ Phụ nữ Tân văn ở Sài Gòn. Vì các triệu chứng quá rõ, Hàn phải lo điều trị cho khỏi trước khi vào nhận việc. Người thứ hai xem mạch kê đơn cho Hàn là một ông thầy thuốc người Hoa ở Gò bồi (Tuy Phước). Ông này cho Hàn uống thuốc tể, dặn kỹ càng về liều lượng và cách sử dụng.
Uống được chừng hai tuần, các triệu chứng bay đi gần hết, chỉ còn hai thuỳ châu phơn phớt hồng.Vì nôn nóng muốn vào Sài Gòn sớm, Hàn đã rút ngắn thời gian điều trị, uống gấp đôi liều. Hàn đâu biết, đó là thứ thuốc làm từ các loại nọc rắn nên có lần uống xong, Hàn lão đão, cong người, ngã vật xuống đất. Quan niệm lấy độc trị độc của các ông lang thời bấy giờ đã làm hư hỏng các phủ tạng của người dùng thuốc, đặc biệt là gan và thận, gây nên hiện tượng ngộ độc thuốc trường diễn, hậu quả cơ thể không có khả năng hấp thu, dẫn đến suy kiệt. Có thể nói, việc Hàn dùng quá liều thuốc có nọc độc của ông lang ở Gò bồi đã dẫn đến cái chết oan uổng của ông không lâu sau đó.
Trải qua hàng loạt những điều trị sai lầm của ông lang, khi Hàn được đưa vào Bệnh viện phong Quy Hoà, ông đã ở trong tình trạng suy kiệt. Hồ sơ của ông mang ký hiệu 1134, ngày vào viện 20/9/1940 với chẩn đoán: "Bệnh phong thể nhiều vi khuẩn".
Ông Nguyễn Văn Xê kể lại: Hàn không thể đi lại một mình, mỗi lúc ra ăn cơm phải có người dìu đi và ở thời kỳ này, Hàn chỉ sáng tác duy nhất bài thơ Sự trong sạch của tâm hồn (La pureté de l’âme) dành tặng các xơ. Ông mất lặng lẽ vì suy kiệt lúc 11h ngày 11 tháng 11 năm 1940, hưởng dương 28 tuổi. Hồ sơ ghi là bệnh kiết lỵ, nhưng theo sự suy đoán của chúng tôi, đó là tình trạng suy kiệt quá nặng do cơ thể không còn khả năng hấp thu.
Điểm qua quá trình diễn biến bệnh tật của nhà thơ để tìm ra nguyên nhân làm ảnh hưởng đến quá trình sáng tác của ông, nhiều người nói thơ ông siêu thoát, thơ ông nghiêng về mô tả nỗi đau, mô tả trăng. Những điều Hàn thể hiện trong thơ phần nhiều đều do bệnh tật ảønh hưởng.
Bệnh phong là căn bệnh mà vi trùng có thể xâm nhập hệ thần kinh, đặc biệt là thần kinh ngoại biên như thần kinh của chân tay, thần kinh cổ. Mỗi khi có sự hiện diện của vi khuẩn trong dây thần kinh, các tế bào có thẩm quyền miễn dịch (tức là tế bào bảo vệ, chống vi khuẩn) sẽ đến bao vây. Hậu quả là đường dẫn truyền của dây thần kinh bị tắc nghẽn, dây thần kinh sưng to và nếu không được điều trị, phía dưới khúc nghẽn sẽ bị hư hại và đó là nguồn gốc của sự tàn phế. Ngày nay, để giải quyết những cơn phản ứng làm dây thần kinh sưng to, người ta dùng loại thuốc làm giảm khả năng hoạt động của các tế bào miễn dịch, chủ yếu dùng Corticoide. Nhưng thời đó, cả thuốc chống phong lẫn Corticoide đều chưa được phát minh, những người mắc bệnh phong phải chịu cả hai hậu quả do cơn phản ứng gây nên: đó là nỗi đau đớn đến cùng cực và sự tê liệt các dây thần kinh mà hậu quả sau cùng là mất cảm giác.
Cơn đau do viêm dây thần kinh là cơn đau rất sâu, nhức buốt ngày này qua tháng khác. Trong quá trình điều trị cho người bệnh trong những năm gần đây tại Bệnh viện phong Quy Hoà, mặc dầu đã cho bệnh nhân thuốc giảm miễn dịch, thuốc giảm đau nhưng phần lớn người bệnh trong cơn phản ứng đều không chịu đựng nổi. Họ phải vật lộn, cắn xé và có người đã tự tử. Với Hàn Mặc Tử, năm 1938, 1939 là những năm ông đau dữõ dội nhất. Chúng ta có thể thấy nhà thơ phản ánh nỗi đau ấy khá rõ trong thơ mình. Theo ông Nguyễn Bá Tín, trong thời kỳ này, ông sống nửa mơ nửa thật, có lúc mơ mơ không biết gì. Tuy nhiên, Hàn âm tầm chịu đựng nỗi đau để rồi có lúc ông quằn quại trong thơ qua các bài Cô Liêu, Những giọt lệ, Hồn là ai với những đoạn:
Hồn đã cắn, đã cào nhai ngáu nghiến
Thịt da tôi sượng sần và tê điếng
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên
Ông sống trong hoản loạn, đau đớn như có một bóng ma luôn ám ảnh và cảm thấy cô đơn đến tột cùng. Nhiều bài thơ ông viết trong thời điểm ấy, khi đọc lên giúp ta hiểu rõ tâm trạng ông:
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu
Sao bông phượng nở trong màu huyết
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu
Ngày nay, trước những đau đớn, người ta phải tìm đến thuốc giảm đau, thuốc an thần. Vào thời điểm đó, người ta phải tìm cho mình con đường riêng để thoát ra khỏi thực tại. Những lúc quá đau đớn, Hàn Mặc Tử đã thoát vào thơ, biến đổi cõi thực sang cõi mộng. Ông mơ mình đang sống trong cõi tiên và đã giúp ông sáng tác Quần-tiên-hội cùng mối tình huyền hoặc với Thương Thương. Và những khi từ mộng quay về thực, khoản nghĩ hiếm hoi giữa các cơn đau, ông sống thong dong bình tĩnh với những vần thơ nhẹ nhàng, tình tứ không mang dấu ấn bệnh hoạn.
Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che nghiêng mặt chữ điền
Có một điều rất dễ nhận thấy trong thơ Hàn, đó là ông viết rất nhiều vế trăng.
Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá
Nàng cũng trăng mà ta cũng trăng
Hoặc:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió thu về để gió rơi
Hoặc:
Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuông vàng dưới đáy khe
Nhiều người thấy tần số những câu thơ, bài thơ về trăng xuất hiện khá nhiều trong thơ Hàn, nên đã đặt câu hỏi, trăng có ảnh hưởng gì đến bệnh tình của Hàn. Quá trình sáng tác của Hàn gắn liền với quá trình chịu đựng đau đớn nên có thể hiểu ông viết những bài thơ, vần thơ có trăng vào những đêm trăng sáng. Đặc điểm của bệnh phong là chỉ thương tổn những dây thần kinh ngoại vi (tay, chân, cổ), những nơi không có quần áo che phủ, hay nói cách khác những nơi có nhiệt độ thấp hơn nơi khác trong cơ thể. Những đêm trăng sáng, không khí lạnh hơn, những đêm không trăng hay trăng bị mây chia khuất. Đó chỉ là hiện tượng bức xạ nhiệt bình thường vì những trảng cát ở Quy Nhơn ban ngày hấp thụ nhiệt rất nhanh, ban đêm mất nhiệt cũng rất nhanh, tạo nên sự chênh lệch về nhiệt độ. Bên cạnh đó, Quy Nhơn nằm trong một thung lũng, ngày đón gíó biển, đêm gió núi thường rất lạnh. Vì vậy, những đêm trăng sáng, Hàn Mặc Tử phải chịu nổi đau nhiều hơn và do đó, tần số những ý thơ về trăng xuất hiện cũng nhiều hơn.


(Văn hoá - Văn nghệ công an.- 1999.- Số 3 (2025); KHPL: BĐ.04(91))
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Ảnh đại diện

Hàn Mặc Tử anh là ai

Chế Lan Viên


Bây giờ Hàn Mặc Tử nằm trên một điểm cao Gành Ráng, đối diện với bể Đông, bể chói loà như thơ Anh và giông bão tựa đời anh. Nằm với trăng sao như Anh từng mơ ước.

Với sao sương anh nằm chết như trăng.

Dưới kia là thành phố Quy Nhơn (những thành phố miền Trung thường có các nhà thơ ở trong và biển mé ngoài. Thành phố của mẹ già nuôi anh "cơn lâm luỵ vừa trải qua dưới thế" của chi Lễ "Chi cũng trăng mà em cũng trăng" của em Hành đem cơm đem cơm cho anh suốt bốn năm trời Anh phong hủi và trước khi vào Quy Hoà, để qua đời trong đó, nghe đâu, Tử đã sụp lạy cảm ơn em, Quy Nhơn thành phố của bạn bè, của bóng dáng tên tuổi những người yêu, cũng là nơi Tử phải trốn chui trốn nhủi để khỏi bị bắt đưa vào trại cùi trong núi. Nhưng Quy Nhơn đối với Nghĩa Bình, đối với cả nước là nơi anh viết những trang thơ ngời chói, máu và nước mắt đời Anh đã khúc xạ đã biến hoá, đã hoá kiếp, thăng hoa. Kết tụ thành trăng sao:

Chỉ có trăng sao là bất diệt
Cái gì khác nữa thảy đi qua

Thôi cả cuộc đời bi thảm của Tử, dù bi thảm đến đâu cũng đã qua rồi. Cái còn lại là những bài thơ đã từ thời Anh đi thẳng vào "thời đại lớn"

(chữ của Bác - tin) rồi hôm nay từ "thời đại lớn" về với chúng ta.

Một mai kia ở bên kia nước ngọc
Với sao sương anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương tâm

Bậy nào, sao lại không? Hôm nay có hàng vạn rồi hàng vạn chục tấm lòng đến cùng Tử đấy.

Tôi không trở lại đời riêng của Tử, ai đã yêu Anh ngắn ngày ai đã yêu Anh dài hạn, và ai Anh chỉ yêu cái bóng, ai Anh yêu cái tên vì chưa thấy mặt bao giờ. Tôi nghĩ bây giờ sống dậy, gặp tất cả những người đẹp ấy, chắc có lẽ Anh đều biết ơn, người này cho Anh ơn nghĩa, người kia cho Anh vết thương, và chính vì vết thương mà con trai đáy bể làm ra viên ngọc.

Tôi cũng không vào cuộc đời (gọi là cách mạng đi) của Tử. Cách mạnh chứ sao! Chính Tử đã dùng hai chữ ấy ở Gái quê in năm 1936 tả "Một nhà cách mạng bị tống giam" viết thư cho vợ:

Thương em không dám nghĩ
Đương lúc nước nhà nguy



Sống chung cùng kẻ nghịch
Hổ thẹn đến ngàn cây

Cuộc đời cách mạng, mà Anh không tự biết là Cách mạng ấy còn dài hơn cả thời gian Rim-bô, Véclen, Bô-đơ-le (Rimbaud, Ver-laine, Baudelaire) và cả Huygô tham gia Ba-lê Công xã Pháp. Tử, dưới biệt hiệu Phong Trần, từ những năm 30-31 đã được cụ Phan Bội Châu ca ngợi, hoạ thơ cùng. Cụ viết đại ý: "Từ về nước đến nay, được xem nhiều thơ văn quốc âm song chưa được bài nào hay đến thế. Hồng nam nhạn bắc, ước ao có ngày gặp gỡ bắt tay cười to một tiếng cho thoả hồn thơ đó." Tử đã ra Huế thăm cụ, bị mật thám Pháp theo dõi, và do thế bị gạch chân trong danh sách những người được đi Pháp học. Vào Sài Gòn làm báo Tử dịch thơ tình của Mác, bênh vực Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan. Về Quy Nhơn, khi chớm có bệnh hiểm nghèo, cuối 1936 Tử đã cộng tác cùng anh Nguyễn Minh Vỹ, đảng viên cộng sản vừa ở tù ra, in giai phẩm Nắng xuân, trong đó có bài Ông Nghi gật, Tử đánh vào Viện Dân biểu thời Pháp thuộc (vừa đăng lại ở sông Hương).

Cho dù Hàn Mặc Tử có cuộc đời bệnh tật, cuộc đời tình duyên, cuộc đời cách mạng ly kỳ, giữ dội gấp trăm lần, nhưng ba hòn núi cao ấy cụm lại không đẻ ra được một cái cây, một bóng mát thơ nào, ba trái núi ấy không đẻ ra được con chuột nhắt thơ nào, thì việc gì ở đây ta phải dông dài. May thay Tử là một đỉnh cao, loà chói trong văn học trong văn học của thế kỷ. Cho nên cũng không mất công đâu khi vì văn Anh mà tìm hiểu thân thế, đời Anh:
Hàn Mặc Tư có tài rất sớm. Tản Đà đã định khen thơ Anh trên báo nhưng rồi tiên sinh qua đời. Làm một bài như bài Cửa sổ đêm khuya, đọc lui, đọc ngược sáu cách, Tử rất giỏi:

Hoa cười nguyệt rọi cửa lòng gương
Lạ cảnh buồn tham nợ vấn vương
Tha thướt liễu in hồ gợn bóng
Hững hờ mai thoảng gió đưa hương
Xa người nhớ cảnh tình lai láng
Vắng bạn ngàn thơ rượu bẽ bàng
Qua lại yến ngàn dâu ủ lá
Hoa dàn sẵn có dế bên tường

Đọc xuôi, đọc ngược, bỏ hai chữ đầu đọc xuôi, bỏ hai chữ cuối dọc xuôi, bỏ hai chữ đầu đọc ngược, bỏ hai chữ cuối đọc ngược. Tử làm bài ấy lúc 17,18 tuổi, cũng là một cách xem thường tài vua Tự Đức "chả mấy giỏi" hơn mình. Sau này, có lúc Tử tự xem mình là "vua nhà Nguyễn" (Nguyễn Trọng Trí là tên anh) "bay trên mây", cái mầm mống phạm thượng biết đâu không bắt đầu từ lúc làm thơ thuận-nghịch độc ấy.

Tử có rất sớm, trong khuôn khổ gò bó trói voi bỏ rọ của thơ Đường luật mà có, cái khả năng Thượng thanh khí hoá, (tên một tập thơ của anh về sau) tâm tưởng tâm hồn hoá:

Tương tư, mộng thấy năm canh mộng
Luyến ái trời vương bốn phía trời
Cái khả năng thế tục hoá, da- thịt- hoá:

Bóng nguyệt leo song, sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn

Khả năng kỳ ảo, ma-quái-hoá cũng xuất hiện rồi:

Mở cửa nhìn trăng trăng tái mặt
Khép phòng đốt nến nến rơi châu

Đấy không phải là thủ thuật, kỹ thuật, những cách bên ngoài. Hoặc, nếu là thế thì cũng nhờ có một cái cốt thế nào đó, một cấu trúc tâm hồn thế nào đó ở bên trong. Hàn Mặc Tử, lúc đó còn lấy tên Phong Trần, tên Lệ Thanh đi về, qua lại giữa trời và đất, cảnh và người, thực và hư... rất thoải mái. Hơi văn lúc thì thu cả cảnh vật vào trong dúm chữ: "Ngàn trùng bóng liễu trông xanh ngắt" lúc thì văn chương chữ nghĩa tuột ra khỏi lòng như một tiếng kêu, một ngọn gió, nhát dao: "Vội vàng cánh nhạn bay đi tuốt". Năng lực đàn hồi ấy cũng khá rõ ràng. Nhưng phải có cơn bão máu, trận hồng thuỷ tai ương, những động đất tâm – hồn, những phun lửa tình yêu kinh khủng về sau thì các khả năng kia mới lên cái thế bình phương, rồi lập phương như ta thấy. Từ năm 1936 đến năm 1940, nghĩa là sau khi rời Sài Gòn ra Gái Quê, về Quy Nhơn thọ bệnh, cho đến lúc vào Quy Hoà và mất, Anh đã làm quá trình một thế kỷ về thơ (1935- 1939 cũng là thời kỳ tôi học ở Quy Nhơn, giới thiệu, dìu dắt tôi vào thơ là công anh lúc đó). Từ một nhà thơ biến ngẫu theo lối cổ phương Đông, anh đã hiện đại như những nhà thơ hiện đại nhất Châu Âu, (chỉ so với Ang-đrê Brơtông, ông tổ siêu thực không thôi cũng đủ thấy rõ). Hơn nữa, thiên hạ hiện đại bằng óc, bằng lời, còn anh thì bằng máu:

Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mưa máu ra

Văn học cần những vấn đề chung, phổ biến cho nhân loại. Nhưng oái oăm chưa, nó lại đòi cái người nói nó đó là một cá nhân, một bản lĩnh, một sắc thái riêng, không giống ai chỉ có một bản duy nhất, không lặp lại hai lần (nói thế chứ trong văn học người ta vẫn na ná nhau khối ra đấy!). Hàn Mặc Tử thì không. Anh chỉ có một, thật. Như một Rimbô của Pháp, một Holderlin của Đức, một Et-ga-pô của Mỹ, một Bồ Tùng Linh của Trung Quốc, một Mai-a-kốp-xki (trước cũng như sau cách mạng tháng Mười) của Liên Xô.

Chúng ta cần có người đã trăng là trăng. Nhưng cũng cần có người vượt lề thói tập toàn mà còn xẻ trăng ra làm hai nửa. Vầng trăng ai xẻ làm đôi (Kiều). Cần truyền thống lại cần biến dị, cần nói điều chưa ai nói (nguời ấy không nói thì ta mất đi, ta nghèo đi cái điều đặc biệt duy nhất người ấy nói ra).

Hôm nay có một nửa trăng thôi
Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi
Ta nhớ mìnhxa thương đứt ruột

Không phải ma thuật kỹ thuật gì của óc đang lạm phát ngôn từ. Lòng có bị cắn đôi, đời có bị tan vỡ, tình có bị đứt đoạn, nghĩa là một thâm sử gì làm trử kim, làm đảm bảo, thì mới có thể phát ra các từ kia.

Người Trung Quốc xưa đánh giá thơ nào thâm, nào chân, nào viên, nào cao, nào tân...nhiều thứ lắm. Tân là (mới).
Nhưng sau tân lại còn tân của tân nữa, đó là kỳ (lạ).

Tóc dài ba nghìn tượng
Vì sầu nên hoá dài
(Lý Bạch)

Bốn dây ứa máu tỳ bà
Và đêm nay hồn anh về ngủ thắt lưng em
(Dân ca H’ mông)

Mái nhà dài như một tiếng chiêng. Tóc nàng dài đến nỗi thả ra thì xuốâng tận đất như một thác nước và che bóng râm như một cây K’ nia (Dân ca Tây Nguyên) hay khi Nguyễn Du tả ma: dấu giầy từng bước in rêu rành rành thì đều là "kỳ" đấy, đều là siêu đấy! Mà nào ta có mất thực đi đâu. Ta được có một cách khác ở một cường độ khác.

Người Châu Âu đẩy cái kỳ đến cái cùng, và kỳ cùng chữ thì yếu tố nó thành chủ nghĩa thành ra "isme". Chủ nghĩa siêu thực còn có tên là romatisme jus quáu bout (chủ nghĩa lãng mạn đến cùng) rượu trên 100 độ. Thế thì chết! Chúng ta chống chủ nghĩa siêu thực. Chống siêu thực ở dạng chủ nghĩa, ở độ 100 ấy, trương lên thành ngọn cờ tướng chỉ huy. A-ra gông. E-luy-a, các vị tổ sư, vị tướng từng phất ngọn cờ ấy đã vứt nó, để trở thành đều là người lính, rồi sau là chủ soái trên thi đàn hiện thực xã hội chủ nghĩa, khi đã thành nguyên soái của thi đàn sau này, các ông vẫn sử dụng các yếu tố siêu thực, sử dụng siêu thực như yếu tố, cho cái hư ảo nó phục vụ hiện thực mình. Và sung mãn hơn lên vì vậy. Chân chân chân, thật thật thật nhưng lại còn đi với ảo ảo ảo nữa. Diệu ơi. Hàn Mặc Tử không phải là một nhà thơ siêu thực. Trước sau Anh vẫn là lãng mạn, dùng nhiều yếu tố hiện thực, dùng nhiều yếu tố siêu thực. Đó cũng là điều trước đây cha ông đã dùng. Nhưng chưa có ai dùng đậm đặc như Anh. Dù đó là Lê Thánh Tông ở Di Thảo, Nguyễn Dữ ở Truyền Kỳ Mạn Lục, Nguyễn Du ở Chiêu hồn hay lúc tả Đạm Tiên, nên nhìn trước nhìn sau Anh là của hiếm ở đất nước nên luôn luôn cần tỉnh thức nên hoá ra quá tỉnh táo là đất nước mình. Trên thế giới thì lại khác? Cần chống lại với cái không khí duy lý đến cùng, duy lý đến cùn, duy lý quá quắt của thời đại máy móc, kỹ thuật, biểu đồ, thống kê, công thức này các nhà văn Châu Aâu rất mê chủ nghĩa hiện thực kỳ ảo (réalism fantas-ma gori-que) của Châu Mỹ La Tinh, trong đó các yếu tố kỳ, hư, ảo, ma quái, huyền thoại, siêu thực đã được phát huy để nuôi hiện thực. Au-tu-ri-as. Các-pên-chi-ê, Mác-két (Astui-as, Car-pentier, Marquiez) đã được đánh giá cao và hâm mộ ở Liên Xô. Tử trong thời gian chúng tôi chỉ thấy anh nói vềBaudel-lare, chớ Lô-trê-a-mông, G-ra dơ Néc-van (Lautréamont. Gé-rard de Nerval). Anh cũng ít nói đến, chỉ nói là Brơtông (Brơton). Anh có biết hay không chủ nghĩa siêu thực? Chắc là không. Giờ bảo anh có xa gần với cái họ hàng đầy biến động, thích biến động, luôn biến hoá đó, có khi anh giận cũng nên! Anh chỉ nói "Một mai tôi chết lên khe Ngọc Truyền! Bây giờ tôi dại tôi điên. Chắp tay tôi lạy cả miền không gian"

Hay Tôi điên tôi nói như người dại
Van lạy không gian xoá những ngày
Và anh giải thích vì đâu mà điên, bởi đâu mà dại:

"Nghĩa là tôi yếu đuối quá. Tôi bị cám dỗ. Tôi phản lại những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật. Và nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên. Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú".

Càng chứng tỏ là siêu thực của anh không phải từ sách vở ra, từ Châu Aâu đến mà từ thảm kịch của anh mà ra. "Nàng" ở đây không phải cô con gái nào đâu! Nàng đau thương đấy. Tử thường đọc Bô-đơ-le:

Sois sage ô ma douleur et tiens-toi plus traquille
(Hãy ngoan hỡi em đau thương và em đứng yên nào)

Tử bảo anh khóc, anh gào, anh rú, Tử quên mất (và chúng ta cũng quên heo) là anh cười nữa chứ:

Ha ha! Ta đuổi theo trăng
Ta đuổi theo trăng
Trăng rơi lả tả ngã ngã trên cành vàng
Hoặc:
Hôm nay vui quá, anh Phùng ơi
Cười nói làm sao cho hả hơi

Mà cười được thế là không điên đâu, chả dại chút nào! Anh chả thèm làm thơ của sự chết, của hư vô, như những người viện Heiddeger, viện Jas-pers, rồi dán cho anh nhãn hiệu có dấu âm, có hơi âm ấy.

Đầu câu bên này là tiếng cười ha hả, đầu câu bên kia lại là cuộc đời bi thảm vào bậc nhất. Giá tiếng cười ấy đắt lắm, chứ đâu phải thứ nhởn nhơ cười, hể hả cười của chúng ta đâu.

Xin dâng này máu đang tươi
Này đây tiếng khóc giọng cười chen nhau

Ta có chịu nghe tiếng cười đắt giá đó không? Và có khôn lõi ném tiếng khóc kia đi hắt cái máu kia đi, chỉ loc lấy tiếng cười đưa vào tuyển tập, đã vô trùng hoá? Nhưng nghe tiếng khóc kia thì ta có bị nhiễm độc gì không? Ngược lại giữ gìn bịt tai không nghe nó, thì ta có bị thiệt thòi gì...

Ồ mấy chục năm trời đánh nhau với những tên giặc quỷ sứ khổng lồ, ta lắm lúc phải trị lấy ta, rồi mới đánh được giặc. Luyện chúng ta từ bùn, từ bùn thành ra sắt thép là vô cùng cần thiết. Nhưng xong giặc rồi, cậu bé Phù Đổng phải nhanh chóng trở lại làm hồn nhiên con trẻ chứ. Thế thì mới đủ sức hoá thành sắt thép lần sau. Đó là quy luật ức chế và hưng phấn của Páp lốp thôi, chả có gì lạ.

Những năm tháng trọng đại đó, ta cần tỉnh thức nên sợ cả mộng mơ thiếp ngủ. Chỉ chợp mắt một tí thôi, có khi đê vỡ, giặc tràn. Huống nữa là cái đê tư tưởng!-Đồng chí Lê Duẩn bảo: "Nhiều người, hai người, một người, cá nhân, lứa đôi, tập thể". Nhưng những năm ấy, không có tập thể, nhiều người thì mất mạng, nên có khi ta cảnh giác lúc chỉ có hai người, lúc trơ trọi một người. Tố Hữu viết "Đêm cuối năm riêng một ngọn đèn" thì đã có nhiều người không muốn có riêng và một ấy. "Con người", ta hích nó giữa đội hình đồng đội, tập đoàn, hơn thế, lại là đội hình đang chiến đấu và tập đoàn đang sản xuất. Ta ưa nó ở thế động, hành động, lao động với tất cả ý chí, reo hò, vỗ tay đôm đốp và ta ngại nó khi tĩnh lặng, khi xúc cảm. Có xúc cảm thì cũng là xúc cảm phấn khởi, chứ hay chi cái xúc cảm buồn? Ôi! Tử ơi, thế mà Tử lại cùng cực đau buồn.

Ta trút linh hồn giữa lúc đây
Gió sầu vô hạn thổi trong cây
Còn em sao chẳng hay gì cả

Ta không hay, hoặc là không muốn hay, không dám hay. Ta không hay rằng các con người ngoài vấn đề xã hội lịch sử mà ta quan tâm, trước tiên là rất đúng, lại còn mỗi người có một thân phận, một cuộc đời riêng. Mác hơn Karl Gia-xpe chỉ biết con người trong đau khổ, trong chiến đấu, trong tội lỗi và đối diện với cái chết. Theo ông đó là cái điểm "cực" của kiếp người. Con người theo ông chỉ giao động thăng trầm giữa yêu đương và thù hận. Mác cũng cao hơn Phật, chỉ thấy sinh, lão, bệnh, tử và giao động, thăng trầm bởi vô-thể tham sân si. Ôi, chết mà có tiền thì cũng sướng đấy. Bệnh mà thuộc một giai cấp quý tộc giàu sang thì cũng khỏi bệnh ngay. Trăm năm trong cõi người ta, "hữu" tại thế, tại cõi thế này thì không phải chỉ sinh khổ, bệnh khổ, lão khổ, tử khổ mà còn không tiền nên khổ, khổ vì Tư bản và tột cùng của chủ nghĩa tư bản là đế quốc là nơ-tơ-rôn. Nhưng chỉ biết "tổng hoà các quan hệ xã hội" thì không hiểu Mác. Mác bảo "cái gì thuộc về người, với tôi đều không xa lạ". Thế mà Tử yêu, Tử đau, Tử bệnh tật, Tử ở trong cô đơn, Tử đối diện cùng cái chết lại xa lạ với ta ư? Thảo nào A-ra-gông hỏi "Trăm năm sau người ta có thể biết Bô-đơ-le không nhỉ? Và ông nổi cáu "nếu người ta không biết Bô-đơ-le thì tôi cần cóc gì biết đến người ta".

Đo từ ngọn cỏ tới cung trăng
Những sợi hào quang vạn thước vàng
Bắt bắt thơ bay trong gió loạn
Để xem tình tứ nặng bao cân

Ồ, tại sao tôi lại hình dung ra những nhà phi hành vũ trụ của ta như Phạm Tuân có thể đọc các câu ấy. Ở cái thời điểm này của nhân loại mà cái chết khinh khí nhiệt hạch có thể đến mọi nhà, mà chuyện các thiên hà trăng sao cùng chuyện của các cháu bé cấp một, thế thì Hàn Mặc Tử đau có lạc lõng gì.

Trở lại vấn đề con người một tí. Vì nói gì thì nói, ở đâu, thơ văn nào cũng là chuyện về nó đấy thôi. Một quyển sách nổi tiếng trên thế giới là "Người, kẻ chưa ai biết ấy". Cố nhiên là biết, nhưng mới ở vòng ngoài. Nhìn ngoài nó liền một cục. Nhưng mà nó có một đâu. Khoa học bảo nó là hai ghép lại An na de Noailles thì bảo nó là vô số. Coeur Innombrable nữa kia. Cố nhiên là ở nội tâm. Nơi Cao Bá Nhạ tìm thấy "trong một mình bảy tám biệt ly". Nghĩa là vẫn không phải là một. Ở người, dưới nó, còn nó, bên cạnh nó, lại nó, đằng sau nó, còn có nó (mà nó ngỡ yêu tinh).

Bóng ai theo rõi bóng mình
Bóng nàng yêu tinh
Nụ cười như tiếng vỡ pha lê

Hãy đi sau vào thơ Tử, vào một tế bào của thơ Anh một chút. Gần 50 năm nay ta đã động gì đến anh đâu. Không khéo, thì đây là lần đầu tiên mất... về vấn đề mình và ai, một mình, hay hai mình đó, có lúc Tử viết:

Ai đi lẳng lặng trên làn nước
Với lại ai ngồi khít cạnh tôi
Mà sao ngậm cứng thơ đầy miệng
Không nói không rằng nín cả hơi

L’homme-cetinconnu, người, cái kẻ bí mật ta chưa biết hết ấy rồi đây. Hàn Mặc Tử đã kể cho Quách Tấn, và họ Quách đã viết lên trên báo đây là một hiện tượng rất thật. Một đêm khuya vắng một mình Tử còn ngồi ngắm trăng bên bể. Bổng anh thấy có một ai đó ngồi khít rịt bên anh. Rồi từ người đó lại hiện ra người nữa. Rồi biến đi. Rồi thấy mặt bể đông lại như tuyết. Trên bể có một người vạm vỡ mặc áo lông gánh hai thùng thiết chạy băng băng. Từ hai thùng tung toé ra những máu là máu. Tử hoảng sợ chạy về nhà.

Rainer Maria Rilke, thi hào Tiệp của cả thế giới thế kỷ này, khi viết Bi-ca ở Đuy-nô (Elégie de Dui-no) đã chú thích "đọc bởi một kẻ vô hình". Hoàng Trung Thông năm ngoái bảo tôi "mình uống rượu nhiều nên bị bệnh huyện tưởng, mình nghe ai nói trong quạt máy" (xin nói anh vẫn viết hay như thường) Bệnh tâm thần, ta vội kết luận và đưa nó cho các nhà y học, phân tâm học. Hãy dừng lại đa.õ Tôi nhớ đến một ví dụ mà các nhà hiện tượng luận đồ Huýt-xéc hay nhắc. Có một bệnh nhân nghe tiếng nói kiểu ấy. Bác sĩ không tin. Người bệnh cáu ‘tin hay không mặc ông nhưng rõ ràng tôi nghe thấy". Các vở kịch viết về Gian đa của Pháp đâu có loại việc nữ anh hùng "nghe" như trên. Mặt kệ y học, về thơ ta hãy thử đếm xỉa đến hiện tượng ấy. Nó là gì. Vì Tử đau yếu chăng! Không, theo tôi chính là Anh rất khoẻ cái hồn thơ anh rất khoẻ. Chả là cô đơn, chả là hư vô, chả là cái chết chập chờn ở trong phòng bệnh, và ở giữa đêm trăng này muốn thủ tiêu Anh mà không được. Anh là một. Nó muốn Ze-rô-hoá Anh, hư-vô hoá Anh cho không còn dấu vết. Nhưng Anh đau chịu thua. Anh hoá hai hoá ba mình ngồi cạnh mình, hơn theá mình mình lại vạm vỡ ra, nở nang lên gánh chạy, gánh cái máu đời mình, chạy trên cái bể thảm kịch của đời mình. Cũng là một cách đối chọi! Hơn gấp trăm lần cái phương pháp ngắm bóng mình dưới giếng của Nác-xít đến héo mòn, huỷ diệt đi không còn tồn tại ở kiếp người.

Nếu ta hiểu cho sự đối phó ấy của Tử thì Hồn của anh chả có gì hồn ma, hồn ma bóng quỷ hay là cái linh hồn của Chúa thổi vào trong đất sét là ta... "ta khạc hồn ta ngoài cửa miệng"... Hồn đó là sản phẩm anh tạo ra. Tạo ra, lại dắt nó đi chơi nữa: "dẫn hồn đi ròng rã một đêm nay". Anh có bạn. Hàn Mặc Tử không còn thụ động là sản phẩm trong bàn tay thượng đế, hơi phạm thượng đấy, nhưng vui chứ, đỡ cô đơn chứ. "Khạc hồn ra cho hồn cao vang đến muôn trượng".

Và bỗng dưng từ thơ tôi nhớ đến khoa học, đến nhà khoa học vĩ đại của nhân loại Anh-xtanh. Ông nói: "Cái điều đẹp nhất mà ta có thể cảm giác được chính là cái khía huyền bí của một đời. Đó là tình cảm sâu xa ở trong nôi của nghệ thuật và khoa học thật sự". Nhà khoa học thật sự thì tương đối yêu sự diệu huyền và nuôi đứa trẻ ấy trong nôi, thế sao ta, nhà văn nghệ còn bấp bênh lại muốn tuyệt đối chỉ yêu cái một là một, hai là hai rõ ràng, chớ không thể một vẫn hai được?

Đi công tác ở các nước phương Tây, tôi thường gặp anh chị em Việt kiều xa nước lâu ngày, gặp anh chị em di tản nữa, các anh chị hỏi "cách mạng đối với Hàn Mặc Tử ra sao?" ra sao ư? Cách mạng đã đón di hài của vua Duy Tân về nước vừa rồi; cách mạng cũng đón thơ của Tử như vậy! Cách đây từ những ba muơi năm, tại đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai năm 1957 lúc đất nước mới chỉ có tự do một nửa thù trong giặc ngoài làm cho Tổ quốc ta ở trong thế ngặt nghèo, thế mà nói về vấn đề tiếp thu di sản, đồng chí Trường Chinh đã nói:

"Cần nhận ra rằng văn nghệ cách mạng của chúng ta là kẻ kế thừa tất cả những giá trị văn nghệ do các thời đại trước tạo ra. Chúng ta có nhiệm vụ giữ gìn và phát triển tất cả di sản của dân tộc và cũng có chúng ta mới làm nổi công việc đó".

Hai lần đồng chí dùng đến chữ tất cả, 57-87. Ba mươi năm chiến tranh cũng chiến tranh rồi, hoà bình cũng hoà bình rồi, nếu không tiếp thu Tử bây giờ còn đợi đến lúc nào! Giao cho con cháu tiếp thu thì cháu con sẽ lên án chúng ta thôi, sao cái gì cũng dồn cho chúng nó. Chúng nó còn bao nhiêu việc. Huống nữa tiếp thu Tử là lợi cho ta chứ lợi gì cho Tử đã chết đầy nửa thế kỷ.

Anh Trường Chinh dặn tiếp: "Việc uốn nắn lại những thái độ hẹp hòi máy móc đối với những giá trị văn nghệ cũ không những có tác dụng sửa chữa những thái độ bất công đối với nhiều tác phẩm mà còn có tác dụng mở rộng con đường cho sáng tác văn nghệ hiện thời". Thực là chí tình đạt lý. Và tôi tin là việc tiếp thu Tử, như anh Trường Chinh nói đó, với văn nghệ hiện thời sẽ có tác dụng mở rộng con đường. Hỡi những người mỗi bước đi cứ sợ nhầm đường.

Sự thừa kế tác phẩm của Tử sẽ làm cho tim ta nhân tính hơn, óc ta co dãn đàn hồi hơn, và cái nhìn ta không đơn giản mà trở nên đa dạng và phong phú.

Ô kìa, bây giờ đối diện với bể Đông trên điểm cao Gành Ráng, mộ Tử bỗng dưng ngời chói, vua nhà Nguyễn gần đó đang lụi tàn. Nguyễn Trọng Trí là Tử đâu có thừa nhận thứ vua ấy. Dù cơ cực đến mấy, Tử vẫn tin ở cái ngôi sáng tạo của mình. Anh mới là vua chứ và anh bay tìm gặp:

Ta đi tìm mộng tầm xuân
Gặp vua nhà Nguyễn bay trên mây
Rượu nắng uống vào thì say
Rực rỡ như một vị vua
Đầy mình lốm đốm những hào quang

Nghĩa là anh không chấp nhận sự huỷ diệt, sự cát bụi hoá anh như lời nguyền rủa: "Từ cát bụi mi trở về cát bụi". Nghĩa là anh tin ở sức sáng tạo bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng của anh. Đồng thời tin chúng ta sẽ đánh giá đúng tài năng "siêu" ấy.


(Văn Nghệ Bình Định.- 1998.- Số 18 (Xuân Mậu Thìn); KHPL: BĐ.04(91))
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào

Trang trong tổng số 4 trang (39 bình luận)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] ›Trang sau »Trang cuối