19/04/2024 10:02Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Cảm hoài thi
感懷詩

Tác giả: Đỗ Mục - 杜牧

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Vãn Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 22/12/2014 09:56

 

Nguyên tác

高文會隋季,
提劍徇天意。
扶持萬代人,
步驟三皇地。
聖雲繼之神,
神仍用文治。
德澤酌生靈,
沉酣薰骨髓。
旄頭騎箕尾,
風塵蘇門起。
胡兵剎漢兵,
尸滿咸陽市。
宣皇走豪杰,
談笑開中否。
蟠聯兩河間,
燼萌終不弭。
號為精兵處,
齊蔡燕趙魏。
合環千里疆,
爭為壹家事。
逆子嫁虜孫,
西鄰聘東里。
急熱同手足,
唱和如宮徵。
法制自作為,
禮文爭僭擬。
壓階螭鬥角,
畫屋龍交尾。
署紙日替名,
分財賞秤賜。
刳隍咸萬尋,
繚坦疊千雉。
誓將付孱孫,
血絕然方已。
九廟仗神靈,
四海為輸委。
如何七十年,
汗赩含羞恥。
韓彭不再生,
英衛皆為鬼。
凶門爪牙輩,
穰穰如兒戲。
累聖但日吁,
閫外將誰寄?
屯田數十萬,
堤防常懾惴。
急征趕軍須,
厚賦資凶器。
因隳畫一法,
且逐隨時利。
流品極蒙尨,
網羅漸離弛。
夷狄日開張,
黎元愈憔悴。
邈矣遠太平,
蕭然盡煩費。
至於貞元末,
風流恣綺靡。
艱極泰循來,
元和聖天子。
元和聖天子,
英明蕩武上。
茅茨覆宮殿,
封章綻帷帳。
伍旅撥雄兒,
夢卜庸真相。
勃雲走轟霆,
河南一平蕩。
繼於長慶初,
燕趟終舁襁。
攜妻負子來,
北闕爭頓顙。
故老撫兒孫,
爾生今有望。
茹鯁喉尚隘,
負重力未壯。
坐幄無奇兵,
吞舟漏疏網。
骨添薊坦沙,
血漲滹沱浪。
只云徒有征,
安能問無狀?
一日五諸侯,
奔亡如鳥往。
取之難梯天,
失之易反掌。
蒼然太行路,
剪剪還榛莽。
關西賤男子,
誓肉虜杯羹。
請數系虜事,
誰其為我聽?
蕩蕩乾坤大,
曈曈日月明。
叱起文武業,
可以豁洪溟。
安得封域內,
長有扈苗征。
七十里百里,
彼亦何嘗爭?
往往念所至,
得醉愁蘇醒。
韜舌辱壯心,
叫閽無助聲。
聊書感懷韻,
焚之遺賈生。

Phiên âm

Cao, Văn[1] hội Tuỳ[2] quý,
Đề kiếm tuân thiên ý
Phù trì vạn đại nhân,
Bộ sậu Tam Hoàng[3] địa.
Thánh vân kế chi thần,
Thần nhưng dụng văn trị.
Đức trạch chước sinh linh,
Trầm hàm huân cốt tuỳ.
Mao đầu kỵ Ky vỹ[4],
Phong trần Tô môn khởi.
Hồ[5] binh sát Hán binh,
Thi mãn Hàm Dương[6] thị.
Tuyên Hoàng[7] tẩu hào kiệt,
Đàm tiếu khai trung bĩ.
Bàn liêu lưỡng Hà gian,
Tẩn manh chung bất nhị.
Hào vi tinh binh xứ,
Tề, Sái, Yên, Triệu, Nguỵ[8].
Hợp hoàn thiên lý cương,
Tranh vi nhất gia sự.
Nghịch tử giá lỗ tôn,
Tây lân sính đông lý.
Cấp nhiệt đồng thủ túc,
Xướng hoạ như cung chuỷ
Pháp chế tự tác vi,
Lễ văn tranh tiếm nghĩ.
Áp giai ly đấu giác,
Hoạ ốc long giao vĩ.
Thự chỉ nhật thế danh,
Phân tài thường xưng tứ.
Khô hoàng hàm vạn tầm[9],
Liễu thản luỹ thiên trĩ[10].
Thệ tương phó sàn tôn,
Huyết tuyệt nhiên phương dĩ.
Cửu miếu trượng thần linh,
Tứ hải vi thâu uỷ.
Như hà thất thập niên,
Hãn hách hàm tu sỉ.
Hàn, Bành[11] bất tái sinh,
Anh, Vệ[12] giai vi quỷ.
Hung môn trảo nha bối,
Nhương nhương như nhi hý.
Luỹ thánh đản nhật hu,
Khổn ngoại tương thuỳ ký?
Đồn điền sổ thập vạn,
Đê phòng thường nhiếp chuý.
Cấp chinh cản quân tu,
Hậu phú tư hung khí.
Nhân huy hoạ nhất pháp,
Thả trục tuỳ thời lợi.
Lưu phẩm cực mông mang,
Võng la tiệm ly thỉ.
Di Địch nhật khai trướng,
Lê nguyên dũ tiều tuỵ.
Mạc hĩ viễn thái bình,
Tiêu nhiên tận phiền phí.
Chí ư Trinh Nguyên mạt[13],
Phong lưu tư ỷ mi.
Nan cực thái tuần lai,
Nguyên Hoà[14] thánh thiên tử.
Nguyên Hoà thánh thiên tử,
Anh minh đãng võ thượng.
Mao tỳ phú cung điện,
Phong chương trán duy trướng.
Ngũ lữ bát hùng nhi,
Mộng bốc dong chân tướng.
Bột vân tẩu oanh đình,
Hà Nam nhất bình đãng.
Kế ư Trường Khánh sơ,
Yên, Triệu chung dư cưỡng.
Huề thê phụ tử lai,
Bắc khuyết tranh đốn tảng.
Cố lão phủ nhi tôn,
Nhữ sinh kim hữu vọng.
Như ngạnh hầu thượng ải,
Phụ trọng lực vị tráng.
Toạ ác vô kỳ binh,
Thôn chu[15] lậu sơ võng.
Cốt thiêm Kế Thản sa,
Huyết trướng Hô Đà lãng.
Chỉ vân đồ hữu chinh,
An năng vấn vô trạng?
Nhất nhật ngũ chư hầu,
Bôn vong như điểu vãng.
Thủ chi nan thế thiên,
Thất chi dị phản chưởng.
Thương nhiên Thái Hàng[16] lộ,
Tiễn tiễn hoàn trăn mãng.
Quan Tây[17] tiện nam tử,
Thệ nhục lỗ bôi canh.
Thỉnh sổ hệ lỗ sự,
Thuỳ kỳ vi ngã thính?
Đãng đãng càn khôn đại,
Đồng đồng nhật nguyệt minh.
Sất khởi Văn, Võ[18] nghiệp,
Khả dĩ khoát hồng minh.
An đắc phong vực nội,
Trường hữu Hỗ, Miêu[19] chinh.
Thất thập lý bách lý,
Bỉ diệc hà thường tranh?
Vãng vãng niệm sở chí,
Đắc tuý sầu tô tỉnh.
Thao thiệt nhục tráng tâm,
Khiếu hôn vô trợ thanh.
Liêu thư cảm hoài vận,
Phần chi di Giả Sinh[20].

Dịch nghĩa

Cao, Văn gặp lúc nhà Tuỳ cuối đời (bạo ngược),
Đã tuốt kiếm tuân theo ý trời được thiên hạ.
Chăm lo trăm họ,
Như thời Tam Hoàng xưa.
Vua thần kế vị vua thánh,
Vua thần dùng văn hoá cai trị dân.
Rót ân huệ cho khắp chúng dân,
Dân thấm nhuần ơn tới xương tuỷ.
Nhưng rồi đầu sao Mao cưỡi lên đuôi sao Ky,
Gió bụi nổi lên ở cửa Tô (thành Phạm Dương).
Quân Hồ giết quân Hán,
Xác chết nằm đầy thành phố Hàm Dương.
Người tài giỏi trốn tránh Tuyên Hoàng,
Đàm tiếu phát sinh vì chuyện này.
An & Sử còn chiếm Hà Nam, Hà Bắc,
Thì mầm mống chiến tranh vẫn chưa dứt.
Hô hào lập khu tinh binh,
Tề, Sái, Yên, Triệu, Nguỵ thi nhau củng cố lực lượng.
Liên hợp thành vòng, biên cương dài cả ngàn dặm,
Cát cứ đất đai làm của riêng cho nhà mình.
Con phản nghịch lấy cháu giặc,
Bọn bên tây cưới lũ bên đông.
Gặp nguy khốn chúng giúp nhau như tay chân,
Hoà hợp như âm cung với chuỷ.
Chúng tự chế ra pháp luật,
Văn tế lễ tiếm dụng như trong cung đình.
Đầu thềm đặt tượng ly có sừng,
Phòng ốc vẽ rồng quấn đuôi nhau.
Công văn ấn ký ngày càng đổi danh xưng,
Cho ai tài vật thì kêu là “ban” (như thiên tử).
Hào khô cho đào hàng vạn tầm,
Tường thành cho xây cả ngàn trĩ.
Thề sẽ trao cho con cháu hèn kém,
Cho tới khi hết người nối dõi mới thôi.
Cũng lập chín miếu để thờ tổ tiên,
Của cải từ bốn phương tải về chất đống.
Cứ như thế đã bảy chục năm nay,
Thấy mà đỏ mặt xấu hổ, mồ hôi vã ra.
Hàn, Bành không sống lại,
Người mang tước An, Vệ đã ra ma cả rồi.
Bọn võ quan trong triều,
Nhung nhúc như lũ trẻ ham chơi.
Các vua cả ngày than thở,
Việc bên ngoài không biết phó thác cho ai?
Đồn điền bắt lính thú canh tác lập cả chục vạn cái,
Cứ lo sợ bị vỡ đê.
Thu thuế gấp cho kịp với nhu cầu quân đội,
Đánh thuế cao đặng còn mua vũ khí.
Việc này làm tổn hại chính sách,
Nhưng được cái thuận lợi trước mắt.
Phẩm chất các quan cực kỳ tạp nhạp,
Kỷ cương dần dần lỏng lẻo.
Tộc Di Địch ngày một bành trướng,
Dân đen ngày càng xơ xác.
Cuộc sống thái bình còn xa vời vợi,
Dân lo buồn vì vua quan chi tiêu thái quá.
Cho tới cuối niên hiệu Trinh Nguyên,
Vẫn còn chi tiêu cho lụa là xa xỉ.
Gian nan cùng cực thì cũng đến hồi thái lai,
Vua thánh thời Nguyên Hoà (Đường Hiến Tông lên ngôi).
Vua thánh thời Nguyên Hoà,
Là bậc anh minh thần võ.
Cho lợp cỏ trên cung điện,
Tấu chương giải quyết rất nhiều trong duy trướng.
Dùng các dũng tướng trẻ trong quân đội,
Bắt chước người xưa đoán mộng mà tìm ra tướng tài.
Như sấm sét rền vang xua tan đám mây ùn,
Một trận dẹp yên được phiên trấn ở Hà Nam.
Kế đến năm đầu Trường Khánh (821),
Phiên trấn đất Yên và đất Triệu cuối cùng cũng phải cuốn gói.
Chúng tự dẫn vợ dắt con,
Đến trước cửa bắc kinh thành tranh nhau dập trán.
Vì thế, các bô lão gọi con cháu lại an ủi rằng:
“Nay các ngươi được sinh ra với đầy hy vọng”.
Nhưng rồi các vua kế tiếp như mắc xương cá trong cổ họng hẹp,
Muốn mang nặng mà chưa đủ sức.
Tướng soái ngồi trong trướng mà không có binh sĩ giỏi,
Cá lớn nuốt được thuyền mà lưới thưa nên để lọt lưới.
Xương lại rơi thêm trên bãi sông Kế Thản,
Máu lại trương lên trong sóng nước sông Hô Đà.
Vua chỉ ra lệnh suông đi đánh dẹp,
Mà không hỏi kết quả ra sao?
Nên chỉ trong một ngày năm phiên trấn đã quy hàng,
Xa chạy cao bay như chim sổ lồng.
Bắt chúng lại khó như bắc thang lên trời,
Mà đất mất do chúng đoạt lại dễ như trở bàn tay.
Đường đi núi Thái Hàng thảo phạt chúng xanh um,
Quanh co đầy những cỏ gai sắc.
Ta chỉ là một chàng trai nhỏ mọn ở đất Quan Tây,
Thề lóc thịt giặc nấu bát canh ăn.
Muốn trình bày vài cách bắt trói giặc,
Nhưng không biết có ai muốn nghe chăng?
Vũ trụ bao la quang đãng,
Mặt trời mặt trăng chiếu sáng lồng lộng.
Như kêu gọi Văn Vương, Võ Vương đứng lên lập nghiệp,
Có thể thông suốt tới biển lớn ở phương đông.
Khi được phong đất rồi,
Phải trường kỳ chinh phạt rợ Hỗ, rợ Miêu.
Bảy chục dặm,
Một trăm dặm tranh giành mà làm gì?
Thường khi nhớ tới việc này,
Lại uống say để buồn khi tỉnh rượu.
Giấu lưỡi không dám nói gì thì hùng tâm cảm thấy nhục,
Muốn kêu trước cửa vua thì không có người tâu giùm.
Nay viết bài thơ cảm hoài này,
Đốt xuống suối vàng cho Giả Sinh.

Bản dịch của Nguyễn Minh

Cao, Văn gặp lúc cuối đời Tuỳ,
Đã tuốt gươm tuân thủ ý trời.
Trăm họ được chăm lo ấm cúng,
Như Tam Hoàng của thuở xa xôi.
Vua thần kế vị sau vua thánh,
Văn hoá được dùng để cảm khai.
Ân đức rót đầy cho bách chúng.
Thấm nhuần xương cốt thứ dân thay.
Đầu sao Mai cưỡi đuôi sao Ky,
Gió bụi cửa Tô nổi nhất thì.
Quân giặc Hồ truy binh Hán giết,
Hàm Dương xác chết ngập đường đi.
Người tài trốn tránh Tuyên Hoàng cả,
Đàm tiếu phát sinh bởi chuyện này.
Giặc chiếm Hà Nam, Hà Bắc trọn,
Thì mầm chinh chiến vẫn dằng dai.
Hô hào lập các trấn tinh binh,
Tề, Sái, Triệu, Yên, Nguỵ rập rình.
Liên hợp bủa vây ngàn dặm tuyến,
Đất đai chiếm hữu lấy cho mình.
Cháu con phản, giặc lấy cùng nhau,
Trai gái đông, đoài lại kết giao.
Lúc khốn chúng liền tay củng cố,
Liên hoàn hợp tựa chuỷ cung cao.
Tự bày bàn luật pháp ung dung,
Văn tế vận hành giống thánh cung.
Đặt tượng ly đầu sừng trước cửa,
Vẽ rồng đuôi quấn quít trong phòng.
Công văn ấn triện thường thay đổi,
Tài vật được cho, gọi tứ đồng.
Hàng vạn tầm hào khô bất tận,
Tường thành ngàn trĩ cứ bao trong.
Họ thề truyền cháu con hèn kém,
Sự nghiệp, khi nào tuyệt tử tông.
Cũng lập chín đền thờ tổ tộc,
Bốn phương của cải tặng cao bồng.
Cứ như thế bảy chục năm trời,
Thẹn xuất mồ hôi, đỏ mặt mày.
Thì hẳn Hàn, Bành không sống lại,
Vệ, An cũng chết những bao đời.
Bọn đồ đảng cửa quan hung hiểm,
Nhung nhúc như đàn trẻ hám chơi.
Vua chỉ suốt ngày than với thở,
Việc bên ngoài phó thác cho ai?
Đồn điền lập đến vạn ngàn nơi,
Luôn sợ đê điều vỡ chẳng ngơi.
Thuế vội vàng thu theo lệnh thúc,
Đánh cao dùng tạo khí binh đầy.
Việc này hại chính sách lâu nay,
Nhưng thuận lợi cho trước mắt này.
Phẩm chất các quan cùng tạp nhạp,
Kỷ cương dần lỏng lẻo nguy tai.
Tộc Di Địch cứ càng thêm mạnh,
Xơ xác chúng dân, thấy mỗi ngày.
Chuyện thái bình còn xa lắc vậy,
Buồn vì phung phí quá tầm tay.
Trinh Nguyên niên hiệu dù tàn cuối,
Xa xỉ phong lưu vẫn cứ hoài.
Cùng cực gian nan rồi sáng lạn,
Đến Nguyên Hoà thưở ấy lên ngôi.
Nguyên Hoà vua thánh vừa thay đó,
Tột bực thiên hoàng minh vũ oai.
Cho lợp cỏ trên cung điện biếc,
Tấu chương trong trướng cứ dông dài.
Ngài dùng tướng trẻ cho quân đội,
Đoán mộng tìm cho được lược tài.
Sấm sét rền xua mây khói tản,
Hà Nam một trận dẹp yên ngay.
Năm đầu Trường Khánh ta đà thấy,
Phản tặc Triệu, Yên chạy dập dìu,
Dắt vợ dẩn con sang cửa bắc,
Tranh nhau dập trán lạy van nài.
Thế nên bô lão khuyên con cháu,
"Rằng được đầy hi vọng tốt tươi".
Vua kế mắc xương trong cổ họng,
Muốn mang vác nặng, sức không tày.
Tướng ngồi trướng, lính giỏi đâu ra,
Cá nuốt thuyền mà lọt lưới qua.
Xương lại phơi bờ sông Kế Thản,
Máu còn tuôn sóng nước Hô Đà.
Vua ra lệnh đánh dẹp mà thôi,
Không hỏi thăm tình thế phản hồi.
Nên chỉ một ngày năm trấn giặc,
Cao bay xa chạy biệt mù khơi.
Tóm thâu họ tựa bắc thang trời,
Chúng đoạt trấn phiên thoáng trở tay.
Đường núi Thái Hàng ngan ngát biếc,
Quanh co rậm rạp cỏ đầy gai.
Là chàng trai nhỏ Quan Tây thành,
Nguyền lóc thịt Hồ giặc nấu canh.
Những muốn bày mưu cao trói chúng,
Biết ai bày cách giúp tâu trình.
Bao la trời đất rạng tinh anh,
Nhật nguyệt chung soi sáng rõ rành.
Kêu gọi Võ, Văn cùng khởi nghiệp,
Hẳn là thông tận biển mông mênh.
Được phong ân trạch hãy đừng quên,
Chinh phạt Hỗ, Miêu đặng kiếm thêm.
Bảy chục hay dù trăm dặm đất,
Tranh giành nhau mãi nghĩ không nên.
Thường khi nhớ chuyện thế này đau,
Lại uống say cho đến tỉnh sầu.
Giấu lưỡi nín thinh, lòng cảm nhục,
Cửa rồng hiến sách, mượn ai tâu.
Bài thơ hoài cảm nặng đa mang,
Đốt gởi Giả Sinh chốn suối vàng.
Lời tự: “Thời Thương Châu[21] dụng binh” 時滄州用兵 (Viết lúc Thương Châu có binh biến).

Đỗ Mục viết bài này khoảng năm 827 khi còn là thư sinh mới 25 tuổi. Ông chứng kiến và thương cảm nhà Đường suy yếu sắp diệt vong. Ông mang hoài bão viết ra kế sách giúp vua chấn hưng triều chính, nhưng thấy không ai tiến cử nên ông lại muốn đốt đi. Lúc ông viết bài này thì quan tiết độ sứ Thương Châu là Lý Toàn Lược vừa qua đời, con trai là Lý Đồng Tiệp tự ý lên nối ngôi cha. Triều đình bổ nhiệm Tiệp làm tiết độ sứ Đoài Hải. Tiệp kháng lệnh. Triều đình cử binh thảo phạt. Thương Châu thất thủ, Tiệp bị giết.

[1] Đường Cao Tổ và Đường Thái Tông. Thái Tông khi mất được phong thuỵ là Văn Võ đại thánh.
[2] Triều đại khai sáng năm 581 rồi mất về tay nhà Đường năm 618.
[3] Ba ông vua đầu tiên của Trung Hoa thời thượng cổ.
[4] Mao, Ky: tên hai chòm sao.
[5] Ở đây chỉ giặc An & Sử.
[6] Tên đất xưa là kinh đô nhà Tần, nay trong tỉnh Thiểm Tây.
[7] Tức Đường Túc Tông, khi mất được phong thuỵ là Đại Tuyên Hiếu hoàng đế.
[8] Tên năm nước cũ, nay Tề trong Sơn Đông, Sái trong An Huy, Yên trong Hà Bắc, Triệu giữa Sơn Tây và Hà Bắc, Nguỵ trong Sơn Tây.
[9] Đơn vị đo chiều dài xưa, bằng 2,48 mét.
[10] Đơn vị đo diện tích xưa, bằng 28,92 mét vuông.
[11] Hàn Tín và Bành Việt, là hai danh tướng giúp Lưu Bang dựng nhà Hán.
[12] Anh quốc công Lý Huân và Vệ quốc công Lý Tĩnh, là hai danh tướng giúp Lý Uyên mở nhà Đường.
[13] Tức năm 804.
[14] Là niên hiệu của Đường Hiến Tông, từ 806 đến 820.
[15] Mượn tích trong sách Sử ký, mục Khốc lại liệt truyện, nói về những con cá lớn có thể nuốt được thuyền mà không có lưới nào bắt được nó. Trong bài ý chỉ bọn phiên trấn có thể lật đổ ngai vàng, nhưng các vua sau Hiến Tông không còn ai trị được chúng nữa.
[16] Núi nay trong tỉnh Hà Bắc.
[17] Vùng đất phía tây ải Hàm Cốc. Quê quán Vạn Niên quận Kinh Triệu của tác giả nằm trong vùng này.
[18] Hai cha con Văn Vương và Võ Vương đã mở ra nhà Chu, cai trị Trung Hoa từ năm 1134 tr.CN đến năm 256 tr.CN.
[19] Tên hai bộ tộc.
[20] Tức Giả Nghị, người đời Hán, tuổi trẻ tài cao, thường đưa kế sách được Hán Văn đế rất tin dùng. Bọn quyền thần ghen tức, đày ông đi Trường Sa. Ông chết ở đó khi tuổi đời mới 33. Tác giả tự ví mình như Giả Nghị.
[21] Tên đất, nay là huyện cùng tên trong tỉnh Hà Bắc.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Mục » Cảm hoài thi