27/04/2024 07:30Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Chiết hạm hành
折檻行

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 18/02/2015 13:01

 

Nguyên tác

嗚呼房魏不復見,
秦王學士時難羨。
青衿胄子困泥塗,
白馬將軍若雷電。
千載少似朱雲人,
至今折檻空嶙峋。
婁公不語宋公語,
尚憶先皇容直臣。

Phiên âm

Ô hô Phòng, Nguỵ[1] bất phục kiến,
Tần vương học sĩ[2] thời nan tiện.
Thanh khâm[3] trụ tử khốn nê đồ,
Bạch mã tướng quân nhược lôi điện.
Thiên tái thiểu tự Chu Vân nhân,
Chí kim chiết hạm không lân tuân.
Lâu công[4] bất ngữ, Tống công[5] ngữ,
Thượng ức tiên hoàng dung trực thần.

Dịch nghĩa

Than ôi hai ông Phòng Huyền Linh với Nguỵ Trưng không còn được gặp lại,
Người thời nay khó mà theo kịp Tần vương học sĩ.
Kẻ theo đòi bút nghiên mặc áo xanh thì bị vùi xuống bùn lầy,
Ông tướng cưỡi ngựa trắng thì phi nhanh như chớp.
Ngàn năm nay ít có người giống như ông Chu Vân,
Tới nay việc làm gãy tay vịn nơi lan can không còn được nói đến.
Nếu ông Lâu Sư Đức không đề cập đến, thì đã có ông Tống Cảnh nói lên rồi,
Còn nhớ chuyện các vua đời trước biết rộng lượng với những vị quan nói thẳng.

Bản dịch của Phạm Doanh

Than ôi Phòng, Nguỵ chẳng lại gặp,
Tần vương học sĩ nay khó kịp.
Học trò áo xanh ngập dưới bùn,
Tướng quân ngựa trắng nhanh như chớp.
Ngàn năm ít người như Chu Vân,
Tới nay gãy ván hết nghe bàn.
Ông Lâu không nói, ông Tống nói,
Còn nhớ vua xưa nể trực thần.
(Năm 766)

“Chiết hạm” do chữ “Chu Vân chiết hạm” 朱雲折檻. Thời Hán, Chu Vân là quan ngự sử, can trường xin vua Thành Đế giết thừa tướng Trương Vũ 張禹. Vua nổi giận, sai người lôi ông ra khỏi phòng họp, và kết tội chết. Ông trì lại bằng cách nắm lấy tay vịn nơi hành lang, khiến nó bị gẫy. Sau dùng điển này để chỉ việc cương quyết can gián vua.

[1] Hai tướng tài là Phòng Huyền Linh 房玄龄 và Nguỵ Trưng 魏徵 đời Đường Thái Tông.
[2] Khổng Dĩnh Đạt 孔穎達 (574-648) tự Trọng Đạt 仲達, cháu đời thứ 32 của Khổng Tử. Ông được tôn xưng là Tần vương học sĩ do am hiểu kinh luật. Ông giữ chức quốc tử tư nghiệp, sau là quan tế tửu, theo lệnh vua Thái Tông soạn Ngũ kinh chính nghĩa 五經正義.
[3] Áo xanh, chỉ học trò. Chữ lấy từ bài Tử khâm 子矜 trong Kinh thi.
[4] Lâu Sư Đức 婁師德 (630-699) tự Tông Nhân 宗仁, người Nguyên Vũ, Trịnh Châu, đời Vũ Hậu. Giữ chức tể tướng, coi việc triều chính. Tính người hiền lành, trung hậu, trong ba chục năm giữ yên bờ cõi, biết cách dùng người.
[5] Tống Cảnh 宋璟 (663-737) tự Quảng Bình 廣平, người Hình Châu, được Vũ Hậu tin dùng. Sau này ông cũng là một tướng tài thời vua Huyền Tông. Ông là người giữ tiết, trọng luật, cùng với Diêu Sùng 姚崇 (605-721) nổi danh một thời. Trong vụ đàn hạch hai anh em Trương Xương Tông 張昌宗 và Trương Dịch Chi 張易之, vốn được Vũ Hậu che chở, nhưng tiếng nói của ông đã được Vũ Hậu tin, bắt hai anh em họ Trương phải tới nhà Tống Cảnh để tạ tội.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Chiết hạm hành