19/04/2024 18:57Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Hu ta thiên
吁嗟篇

Tác giả: Tào Thực - 曹植

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Tam Quốc
Đăng bởi Vanachi vào 14/11/2007 16:43

 

Nguyên tác

吁嗟此轉蓬,
居世何獨然。
長去本根逝,
宿夜無休閑。
東西經七陌,
南北越九阡。
卒遇回風起,
吹我入雲間。
自謂終天路,
忽然下沉淵。
驚飆接我出,
故歸彼中田。
當南而更北,
謂東而反西。
宕宕當何依,
忽亡而復存。
飄颻周八澤,
連翩歷五山。
流轉無恆處,
誰知吾苦艱。
願為中林草,
秋隨野火燔。
糜滅豈不痛,
願與根荄連。

Phiên âm

Hu ta thử chuyển bồng,
Cư thế hà độc nhiên.
Trường khứ bản căn thệ,
Túc dạ vô hưu nhàn.
Đông tây kinh thất mạch,
Nam bắc việt cửu thiên.[1]
Tốt ngộ hồi phong khởi,
Xuy ngã nhập vân gian.
Tự vị chung thiên lộ,
Hốt nhiên há trầm uyên.
Kinh tiêu tiếp ngã xuất,
Cố quy bỉ trung điền.
Đương nam nhi cánh bắc,
Vị đông nhi phản tây.
Đãng đãng đương hà y,
Hốt vong nhi phục tồn.
Phiêu diêu chu bát trạch[2],
Liên phiên lịch ngũ san[3].
Lưu chuyển vô hằng xứ,
Thuỳ tri ngô khổ gian.
Nguyện vi trung lâm thảo,
Thu tuỳ dã hoả phần.
My diệt khởi bất thống,
Nguyện dữ căn cai liên.

Dịch nghĩa

Thương thay thân ta phiêu bồng,
Ở trên đời này cô độc sao.
Rời bỏ nơi gốc gác,
Ngày đêm chẳng được nghỉ ngơi.
Đông tây qua bảy đường,
Nam bắc vượt chín lối.
Bỗng gặp trận cuồng phong nổi lên,
Thổi ta lên trời mây.
Vừa mới lên đến trời,
Bỗng lại rơi xuống vực.
Gió lớn cuốn ta ra,
Khiến ta rơi xuống cánh đồng nọ.
Đang nam bỗng lại thành bắc,
Tưởng đông mà hoá lại là tây.
Thật ghê gớm làm sao,
Bỗng như sống như chết.
Phiêu diêu qua tám đầm,
Bay qua năm ngọn núi.
Lưu chuyển không có nơi cố định,
Có ai hay ta khổ cực.
Nguyện làm cỏ trong rừng,
Mùa thu cháy theo lửa hoang.
Bị thiêu cháy lẽ nào không đau,
Chỉ mong rễ vẫn còn liền.

Bản dịch của Điệp luyến hoa

Thương thân ta phiêu bạc,
Cô độc trên đời này.
Rời bỏ nơi gốc gác,
Đâu thảnh thơi một ngày.
Vượt chín đường nam bắc,
Qua bảy lối đông tây.
Bỗng trận cuồng phong nổi,
Cuốn ta tới tận mây.
Vừa kéo lên trời thẳm,
Lại thả xuống vực ngay.
Gió lớn lôi ra được,
Quẳng vào cánh đồng này.
Đang nam mà thành bắc,
Tưởng đông lại hoá tây.
Ngẫm ra mà ghê gớm,
Như sống chết đổi thay.
Qua tám đầm trôi nổi,
Hết năm núi lượn bay.
Lưu chuyển không an định,
Khổ cực nào ai hay.
Thà như cỏ trên bãi,
Mùa thu cháy thân gầy.
Héo tàn há chẳng cực,
Mong rễ vẫn liền dây.
Đây là một bài nhạc phủ, thuộc Tương hoạ ca từ. Theo Nhạc phủ giải đề, Tào Thực phỏng Khổ hàn hành 苦寒行 mà sáng tác. Bài này của Tào Thực tỏ ý trách bị Văn Đế Tào Phi bức hại, trước sau trong hơn 10 năm bị đổi đất phong liên tục, có lẽ được sáng tác vào năm Thái Hoà thứ 3 (229) đời Nguỵ Minh Đế sau khi Tào Thực được phong làm Đông A vương. Hai câu cuối ý nói chết dù đau đớn nhưng chỉ mong vẫn còn được gần với tổ tiên (loài cỏ, cây mẹ sinh ra cây con rễ nối liền với nhau).

[1] Bảy đường chín lối trong hai câu chỉ có ý nghĩa phiếm chỉ, ý nói đi nhiều.
[2] Hán thư chép “Lỗ có Đại Dã, Tấn có Đại Lục, Tần có Dương Ô, Tống có Mạnh Chư, Sở có Vân Mộng, giữa Ngô-Việt có Cụ Khu, Tề có Hải Ngung, Trịnh có Phố Điền”, đó là những đầm lớn thời xưa. Tám đầm ở đây chỉ mang nghĩa phiếm chỉ khắp các sông hồ.
[3] Tức Hoa Sơn, Thú Sơn, Thái Thất, Thái Sơn, Đông Lai, ở đây chỉ có nghĩa phiếm chỉ khắp nơi núi cao.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Tào Thực » Hu ta thiên