07/05/2024 12:50Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Phụng tặng Lô ngũ trượng tham mưu Cư
奉贈盧五丈參謀琚

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 29/05/2015 22:50

 

Nguyên tác

恭惟同自出,
妙選異高標。
入幕知孫楚,
披襟得鄭僑。
丈人藉才地,
門閥冠雲霄。
老矣逢迎拙,
相于契托饒。
賜錢傾府待,
爭米駐船遙。
鄰好艱難薄,
氓心杼軸焦。
客星空伴使,
寒水不成潮。
素髮幹垂領,
銀章破在腰。
說詩能累夜,
醉酒或連朝。
藻翰惟牽率,
湖山合動搖。
時清非造次,
興盡卻蕭條。
天子多恩澤,
蒼生轉寂寥。
休傳鹿是馬,
莫信鵩如鴞。
未解依依袂,
還斟泛泛瓢。
流年疲蟋蟀,
體物幸鷦鷯。
辜負滄洲願,
誰云晚見招。

Phiên âm

Cung duy đồng tự xuất[1],
Diệu tuyển dị cao tiêu.
Nhập mạc tri Tôn Sở[2],
Phi khâm đắc Trịnh Kiều[3].
Trượng nhân tạ tài địa,
Môn phiệt quán vân tiêu.
Lão hĩ phùng nghinh chuyết,
Tương vu khế thác nhiêu.
Tứ tiền khuynh phủ đãi,
Tranh mễ trú thuyền dao.
Lân hảo gian nan bạc,
Manh tâm trữ trục tiều.
Khách tinh không bạn sứ,
Hàn thuỷ bất thành triều.
Tố phát cán thuỳ lĩnh,
Ngân chương phá tại yêu.
Thuyết thi năng luỹ dạ,
Tuý tửu hoặc liên triêu.
Tảo hàn duy khiên suất.
Hồ sơn hợp động diêu.
Thì thanh phi tạo thứ,
Hứng tận khước tiêu điều.
Thiên tử đa ân trạch,
Thương sinh chuyển tịch liêu.
Hưu truyền lộc thị mã,
Mạc tín phục như hào.
Vị giải y y duệ,
Hoàn châm phiếm phiếm biều.
Lưu niên bì tất suất,
Thể vật hạnh tiêu liêu.
Cô phụ Thương Châu nguyện,
Thuỳ vân vãn kiến chiêu.

Dịch nghĩa

Cung kính vì thấy cùng một gốc mà ra,
Chọn đúng được cái mốc cao dễ dàng.
Vào trong tỉnh đường nhận ra ngay Tôn Sở,
Cởi áo có được Trịnh Kiều.
Bác là nơi người ta nhờ cậy,
Trong cung vua uy tín bác vượt tuốt lên cao.
Tôi nay đã già rồi nên vụng về trong cách đón tiếp,
Đối với điều này tôi đã ứ lên rồi.
Chờ dốc kho ra để cho tiền,
Đậu thuyền nơi xa tránh việc tranh nhau thóc.
Hàng xóm tốt nhưng vì khó khăn khiến họ trở thành nhạt nhẽo,
Lòng chán nghề nghiệp nên việc khung, thoi dệt bị bỏ rơi.
Ngôi sao lạ không có chỗ nương nhờ,
Nước lạnh không làm thành nước triều dâng.
Tóc trắng cọng rủ xuống tận cổ,
Đai bạc gãy mang nơi lưng.
Nói chuyện thơ có thể luôn mấy đêm,
Say rượu có thể suốt ngày.
Bài thơ hay cứ phải rút ruột,
Sông hồ hợp với đời bồng bềnh.
Lúc yên lành chẳng phải hấp tấp mà có được,
Hết hứng lại buồn teo.
Nhà vua ban cho nhiều ơn mưa móc,
Mà dân đen cứ thấy thảm đạm.
Thôi hãy ngưng việc nói láo như chỉ con hươu lại nói là ngựa,
Chớ có tin rằng con chim cú cũng giống như chim vọ.
Còn nguyên chưa buông được tay áo,
Thì cứ việc châm thêm bầu rượu đi.
Vận hạn khiến dế mệt mỏi,
Đặt mình vào sư vật mà xét thấy con chim tiêu liêu may mắn.
Đành lỡ hẹn với cảnh Thương Châu,
Ai là người nói rằng sau này còn thấy lại.

Bản dịch của Phạm Doanh

Kính cẩn vì cùng chung một gốc,
Tiêu chuẩn cao lựa lọc dễ dàng.
Làm quan Tôn Sở rõ ràng,
Bè bạn vị nể sánh ngangTrịnh Kiều.
Bác là người bao nhiêu uỷ thác,
Nơi cung vua cao ngất tới mây.
Già rồi chào đón vụng thay,
Bạn bè nhiều dịp giãi bày nê no.
Cho tiền những chờ kho dốc mở,
Sợ cướp gạo, thuyền đỗ nơi xa.
Gian nan làm láng giềng lơ,
Lòng nản lại khiến ý thơ tan rồi.
Thân khách lạ không nơi nương tựa,
Dòng nước lạnh chẳng ứa thành triều.
Vướng cổ sợi tóc trắng sao,
Huy chương bạc vỡ gắn vào ngang bên.
Chuyện thơ mấy đêm liền còn nói,
Uống rượu thời mấy buổi chưa say.
Rút ruột mới có văn hay,
Núi, hồ họp lại mà lay động tình.
Phút yên tĩnh chẳng nhanh mà được,
Dứt hứng rồi buồn bực lại về.
Ân huệ vua ban tràn trề,
Mà sao dân vẫn nhiều bề đơn sai.
Thôi đừng sạo, chỉ nai nói ngựa,
Bảo chim cú giống quạ, chớ tin.
Tay kia vạt áo còn vin,
Thì bầu rượu nọ cứ xin nghiêng đều.
Dế mệt mỏi vì nhiều vận hạn,
Xét chuyện đời may mắn tiêu liêu.
Thôi đành lỡ hẹn Thương Châu,
Nào ai dám nói về sau này còn.
(Năm 769)

Nguyên chú: “Thời trượng nhân sứ tự Giang Lăng, tại Trường Sa đãi ân chỉ, tiên chi suất tiền mễ” 時丈人使自江陵,在長沙待恩旨,先支率錢米 (Lúc đó bác đi sứ từ Giang Lăng, lúc ở Trường Sa trong khi đợi lệnh ban ơn của vua, đã chi xuất gạo tiền trước).

[1] Bà nội của tác giả cũng họ Lư 盧, theo bài chí Phạm Dương thái quân 范陽太君.
[2] Tự Tử Kinh, một nhà thơ đời Tây Tấn, có tài thao lược, cuối đời Nguỵ làm tham mưu choTrấn đông tướng quân Thạch Bao 石苞, đời Tấn giữ chức phù phong cho tư mã Vương Tuấn 王駿. Thơ ông có câu “Thâm mục nga mi, Trạng như sầu Hồ” 深目蛾眉,狀如愁胡 (Lông mày nơi mắt sâu thẳm, Vẻ như người Hồ buồn).
[3] Quan đại phu nước Trịnh tên là Công Tôn Kiều 公孫僑, tự Tử Sản 子產, người đời Xuân Thu. Sứ giả nước Ngô là Diên Lăng Quý Tử 延陵季子 sang nước Trịnh, gặp Tử Sản, tưởng như là người đã quen biết cũ, đem áo lụa ra tặng, Tử Sản tặng lại áo gai.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Phụng tặng Lô ngũ trượng tham mưu Cư