23/04/2024 13:52Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tiền Xích Bích phú
前赤壁賦

Tác giả: Tô Thức - 蘇軾

Thể thơ: Phú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Bắc Tống, Liêu
Đăng bởi Vanachi vào 14/12/2006 18:40

 

Nguyên tác

壬戌之秋,七月既望,蘇子與客泛舟遊於赤壁之下。清風徐來,水波不興,舉酒屬客,誦明月之詩,歌窈窕之章。少焉,月出於東山之上,徘徊於斗牛之間。白露橫江,水光接天。縱一葦之所如,凌萬頃之茫然。浩浩乎如馮虛御風,而不知其所止;飄飄乎如遺世獨立,羽化而登仙。於是飲酒樂甚,扣舷而歌之。歌曰︰
「桂棹兮蘭槳,
擊空明兮泝流光。
渺渺兮於懷,
望美人兮天一方。」

客有吹洞蕭者,倚歌而和之,其聲嗚嗚然,如怨如慕,如泣如訴;餘音裊裊,不絕如縷;舞幽壑之潛蛟,泣孤舟之嫠婦。

蘇子愀然,正襟危坐,而問客曰︰
「何為其然也?」

客曰︰
「月明星稀,烏鵲南飛,此非曹孟德之詩乎?西望夏口,東望武昌;山川相缪,鬱乎蒼蒼;此非孟德之困於周郎者乎?方其破荊州,下江陵,順流而東也,舳艫千里,旌旗蔽空,釃酒臨江,橫槊賦詩;固一世之雄也,而今安在哉?況吾與子,漁樵於江渚之上,侶魚蝦而友糜鹿,駕一葉之扁舟,舉匏樽以相屬;寄蜉蝣於天地,渺滄海之一粟。哀吾生之須臾,羨長江之無窮;挾飛仙以遨遊,抱明月而長終。知不可乎驟得,托遺響於悲風。」

蘇子曰︰
「客亦知夫水與月乎?逝者如斯,而未嘗往也;盈虛者如彼,而卒莫消長也。蓋將自其變者而觀之,而天地曾不能以一瞬。自其不變者而觀之,則物與我皆無盡也,而又何羨乎?且夫天地之間,物各有主。苟非吾之所有,雖一毫而莫取。惟江上之清風,與山間之明月,耳得之而為聲,目遇之而成色。取之無禁,用之不竭。是造物者之無盡藏也,而吾與子之所共適。」

客喜而笑,洗盞更酌。肴核既盡,杯盤狼藉。相與枕藉乎舟中,不知東方之既白。

Phiên âm

Nhâm Tuất chi thu, thất nguyệt ký vọng, Tô tử dữ khách phiếm chu du ư Xích Bích chi hạ. Thanh phong từ lai, thuỷ ba bất hứng, cử tửu chúc khách, tụng Minh nguyệt chi thi[1], ca Yểu điệu chi chương. Thiểu yên, nguyệt xuất ư đông sơn chi thượng, bồi hồi ư Đẩu Ngưu chi gian. Bạch lộ hoành giang, thuỷ quang tiếp thiên. Túng nhất vĩ chi sở như, lăng vạn khoảnh chi mang nhiên. Hạo hạo hồ như bằng hư ngự phong, nhi bất tri kỳ sở chỉ; phiêu phiêu hồ như di thế độc lập, vũ hoá nhi đăng tiên. Ư thị ẩm tửu lạc thậm, khấu huyền nhi ca chi. Ca viết:
“Quế trạo hề lan tương,
Kích không minh hề tố lưu quang,
Diểu diểu hề ư hoài,
Vọng mỹ nhân[2] hề thiên nhất phương.”

Khách hữu xuy động tiêu giả, ỷ ca nhi hoạ chi; kỳ thanh ô ô nhiên, như oán như mộ, như khấp như tố, dư âm diểu diểu bất tuyệt như lũ; vũ u hác chi tiềm giao, khấp cô chu chi ly phụ.

Tô tử sậu nhiên chính khâm, nguy toạ nhi vấn khách, viết:
- Hà vi kỳ nhiên dã?

Khách viết:
- “Nguyệt minh[3] tinh hy, ô thước nam phi”, thử phi Tào Mạnh Đức[4] chi thi hồ? Tây vọng Hạ Khẩu[5], đông vọng Vũ Xương[6]; sơn xuyên tương mâu, uất hồ thương thương, thử phi Mạnh Đức chi khốn ư Chu Lang giả hồ? Phương kỳ phá Kinh Châu[7], há Giang Lăng[8], thuận lưu nhi đông dã, trục lô thiên lý, tinh kỳ tế không, si tửu Lâm giang, hoành sáo phú thi, cố nhất thế chi hùng dã, nhi kim an tại tai? Huống ngô dữ tử, ngư tiều ư giang chử chi thượng, lữ ngư hà nhi hữu mi lộc, giá nhất diệp chi biển chu, cử bào tôn dĩ tương chúc, ký phù du ư thiên địa, diểu thương hải chi nhất túc. Ai ngô sinh chi tu du, tiện Trường Giang chi vô cùng, hiệp phi tiên dĩ ngao du, bão minh nguyệt nhi trường chung. Tri bất khả hồ sậu đắc, thác di hưởng ư bi phong.

Tô tử viết:
- Khách diệc tri phù thuỷ dữ nguyệt hồ? Thệ giả như tư nhi vị thường vãng dã; doanh hư giả như bỉ nhi tốt mạc tiêu trưởng dã. Cái tương tự kỳ biến giả nhi quan chi, nhi thiên địa tằng bất năng dĩ nhất thuấn. Tự kỳ bất biến giả nhi quan chi, tắc vật dữ ngã giai vô tận dã, nhi hựu hà tiện hồ? Thả phù thiên địa chi gian, vật các hữu chủ. Cẩu phi ngô chi sở hữu, tuy nhất hào nhi mạc thủ. Duy giang thượng chi thanh phong, dữ sơn gian chi minh nguyệt, nhĩ đắc chi nhi vi thanh, mục ngộ chi nhi thành sắc. Thủ chi vô cấm, dụng chi bất kiệt. Thị tạo vật giả chi vô tận tàng dã, nhi ngô dữ tử chi sở cộng thích.

Khách hỉ nhi tiếu, tẩy trản cánh chước. Hào hạch ký tận, bôi bàn lang tạ. Tương dữ chẩm tạ hồ chu trung, bất tri đông phương chi ký bạch.

Bản dịch của Phan Kế Bính

Ngoài rằm tháng bảy mùa thu năm Nhâm Tuất, Tô tử cùng với khách bơi thuyền chơi ở dưới núi Xích Bích. Hây hây gió mát, sóng lặng như tờ, cầm chén rượu lên mời khách, đọc bài thơ Minh Nguyệt và hát một chương Yểu Điệu. Một lát, trăng mọc lên trên núi Đông Sơn, đi lững thững trong khoảng hai sao ngưu, đẩu. Khi đó sương toả trên mặt sông, nước trong tiếp đến chân trời. Tha hồ cho một chiếc thuyền nhỏ đi đâu thì đi, vượt trên mặt nước mênh mông muôn khoảnh. Nhẹ nhàng như cưỡi gió đi trên không, mà không biết là đi đến đâu; hớn hở sung sướng như người quên đời đứng một mình mọc cánh mà bay lên tiên. Vì thế uống rượu vui lắm, rồi gõ vào mạn thuyền mà hát. Hát rằng:
“Thung thăng thuyền quế chèo lan,
Theo vừng trăng tỏ vượt làn nước trong.
Nhớ ai cánh cánh bên lòng,
Nhớ người quân tử ngóng trông bên trời”.

Trong bọn khách có một người thổi ống sáo, bèn theo bài ca của ta mà hoạ lại. Tiếng sáo não nùng rên rỉ như sầu như thảm, như khóc như than. Dư âm vẫn còn lanh lảnh, nhỏ tít như sợi tơ chưa dứt, làm cho con giao long ở dưới hang tối cũng phải múa mênh, người đàn bà thủ tiết ở một chiếc thuyền khác cũng phải sụt sùi.

Tô tử buồn rầu sắc mặt, thu vạt áo, ngồi ngay ngắn mà hỏi khách rằng:
- Làm sao lại có tiếng não nùng làm vậy?

Khách đáp rằng:
- Câu “Minh nguyệt tinh hi, ô thước nam phi” chẳng phải là câu thơ của Tào Mạnh Đức đó ư? Phía tây trông sang Hạ Khẩu, phía đông nhìn sang Vũ Xương sông núi uốn khúc vây nhau, cây cối xanh tươi um tùm; đó chẳng phải là nơi Tào Mạnh Đức bị khốn với Chu Lang ư? Đương khi Tào công phá đất Kinh Châu, xuống thành Giang Lăng, thuận dòng mà sang mặt đông, thuyền bè muôn dặm, cờ tán rợp trời, rót chén rượu đứng trên mặt sông, cầm ngang ngọn giáo ngâm câu thơ, đó thực là anh hùng một đời mà nay thì ở đâu? Huống chi tôi với bác đánh cá, kiếm củi ở bến sông này, kết bạn cùng tôm cá, chơi bời với hươu nai, bơi một chiếc thuyền nho nhỏ, nhắc chén rượu để mời nhau, gửi thân phù du ở trong trời đất, nhỏ nhặt như hạt thóc ở trong bể xanh, thương cho sự sống của ta không được bao lâu mà khen cho con sông này dài vô cùng. Vậy mà muốn được dắt tiên bay để vui chơi cho sung sướng, ôm lấy vừng trăng tỏ mà sống mãi ở đời. Tôi không làm sao được như vậy, nên nảy ra tiếng rầu rĩ ở trong cơn gió thoảng!

Tô tử nói:
- Vậy thế thì bác có biết nước và mặt trăng không? Nước chảy thế kia mà chưa từng đi bao giờ; mặt trăng khi tròn khi khuyết như vậy mà chưa thêm bớt bao giờ. Bởi vì ta tự ở nơi biến đổi mà xem ra thì cuộc trời đất cũng chỉ ở trong một cái chớp mắt; mà nếu tự ở nơi không biến đổi mà ra thì muôn vật cùng với ta, đều không bao giờ hết cả; cần gì phải khen đâu! Vả lại ở trong trời đất, vật nào có chủ ấy, nếu không phải là của ta thì dẫu một li ta cũng không lấy. Chỉ có ngọn gió mát ở trên sông cùng vầng trăng sáng ở trong núi, tai ta nghe nên tiếng, mắt ta trông nên vẻ, lấy không ai cấm, dùng không bao giờ hết, đó là kho vô tận của Tạo Hoá mà là cái vui chung của bác với tôi.

Khách nghe vậy, mừng và cười, rửa chén rót rượu uống một lần nữa. Khi đồ nhắm, hoa quả khan, mâm bát bỏ ngổn ngang, cùng nhau gối đầu ngủ ở trong khoang thuyền, không biết rằng vừng đông đã sáng bạch từ lúc nào.
Ở huyện Hoàng Cương, tỉnh Hồ Bắc có núi Xích Bích, ven núi có sông gọi là sông Xích Bích. Tô Thức cùng bạn đi chơi thuyền dưới dãy núi này. Còn sông Xích Bích là chiến trường đời Tam Quốc thì ở huyện Gia Ngư, tỉnh Hồ Bắc. Tô Thức nhân đi chơi nhớ tới chiến trường cũ mà nhắc tới cổ nhân. Năm Kiến An thứ 13 (208), Tào Tháo nhân đã chiếm được Kinh Châu, Lưu Tôn ra hàng, bèn khởi 85 vạn quân đánh Giang Đông. Vua Đông Ngô là Tôn Quyền liên kết với Lưu Bị, phong Chu Du làm Đại đô đốc để chống cự. Chu Du bàn mưu với Gia Cát Lượng, dùng kế hoả công đại phá quân Tào trên sông Xích Bích, khiến thuyền bè Tào Tháo bị đốt cháy hết. Những núi đá hai bên bờ sông lửa đốt đỏ rực nên đời sau gọi là Xích Bích.

[1] Nhắc bài Nguyệt xuất trong Kinh thi.
[2] Người đẹp. Sở từ dùng chữ “mỹ nhân” để chỉ người hiền nhân quân tử. Ở đây “vọng mỹ nhân” là nhớ bạn bè bị Vương An Thạch đưa đi đày mỗi người một nơi.
[3] Có bản chép là “Minh nguyệt” 明月.
[4] Tào Tháo thời Tam Quốc, tự Mạnh Đức, kéo quân xuống đánh Giang Đông, thuỷ quân đóng trên sông Xích Bích. Gặp đêm thu, Tháo uống rượu say, cầm ngang ngọn giáo đứng đầu thuyền hát bài Đoản ca hành.
[5] Nay là Hán Khẩu, thuộc tỉnh Hồ Bắc.
[6] Nay là phủ Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc.
[7] Nay là tỉnh Hồ Bắc.
[8] Nay là huyện Giang Lăng, tỉnh Hồ Bắc.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Tô Thức » Tiền Xích Bích phú