03/05/2024 21:23Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Hồi 18

Tác giả: Nguyễn Du - 阮攸

Thể thơ: Lục bát; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 29/06/2005 11:16

 

Cửa từ bi lại gặp yêu ma, sa cơ đoạ lạc!
Miền hoa khói trổ nghề trăng gió, gặp gỡ anh hùng.
(Câu 2035-2254)


2035. Chùa đâu trông thấy nẻo xa
Rành rành “Chiêu Ẩn[1] am” ba chữ bài
Xăm xăm gõ mái cửa ngoài
Trụ trì[2] nghe tiếng rước mời vào trong
Thấy mầu ăn mặc nâu sồng
2040. Giác Duyên sư trưởng lành lòng liền thương
Gạn gùng ngành ngọn cho tường
Lạ lùng, nàng hãy tìm đường nói quanh:
Tiểu thiền[3] quê ở Bắc kinh,
Quy sư, quy Phật[4], tu hành bấy lâu
2045. Bản sư[5] rồi cũng đến sau
Dạy đưa pháp bảo[6] sang hầu sư huynh[7].
Rày vâng diện kiến[8] rành rành
Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra
Xem qua sư mới dạy qua:
2050. Phải nơi Hằng Thuỷ[9] là ta hậu tình[10]
Chỉn e đường sá một mình
Ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày.
Gửi thân được chốn am mây[11]
Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong
2055. Kệ kinh câu cũ thuộc lòng
Hương đèn việc cũ, trai phòng quen tay
Sớm khuya lá bối phướn mây
Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương
Thấy nàng thông tuệ[12] khác thường
2060. Sư càng nể mặt, nàng càng vững chân.

Cửa thiền vừa cữ cuối xuân
Bóng hoa đầy đất, vẻ ngân[13] ngang trời
Gió quang, mây tạnh thảnh thơi
Có người đàn việt[14] lên chơi cửa già[15]
2065. Giở đồ chuông khánh xem qua
Khen rằng: Khéo giống của nhà Hoạn nương!
Giác Duyên thực ý lo lường
Đêm khuya mới hỏi lại nàng trước sau
Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mầu
2070. Sự mình nàng mới gót đầu bày ngay:
Bây giờ sự đã dường này
Phận hèn dầu rủi, dầu may tại người.
Giác Duyên nghe nói rụng rời
Nửa thương, nửa sợ, bồi hồi chẳng xong
2075. Rỉ tai mới kể sự lòng:
Ở đây cửa Phật là không hẹp gì
E chăng những sự bất kỳ
Để nàng cho đến thế thì cũng thương!
Lánh xa trước liệu tìm đường
2080. Ngồi chờ nước đến, nên dường còn quê!
Có nhà họ Bạc bên kia
Am mây quen lối đi về dầu hương
Nhắn sang, dặn hết mọi đường
Dọn nhà hãy tạm cho nàng trú chân

2085. Những mừng được chốn an thân
Vội vàng nào kịp tính gần tính xa
Nào ngờ cũng tổ bợm già
Bạc Bà học với Tú Bà đồng môn[16]!
Thấy nàng mặn phấn, tươi son
2090. Mừng thầm được buổi bán buôn có lời
Hư không đặt để nên lời
Nàng đà lớn sự rụng rời lắm phen
Mụ càng xua đuổi cho liền
Lấy lời hung hiểm, ép duyên Châu Trần
2095. Rằng: Nàng muôn dặm một thân
Lại mang lấy tiếng dữ gần, lành xa[17]
Khéo oan gia[18], của phá gia[19]!
Còn ai dám chứa vào nhà nữa đây?
Kíp toan kiếm chốn xe dây[20]
2100. Không dưng chưa dễ mà bay đàng trời!
Nơi gần thì chẳng tiện nơi
Nơi xa thì chẳng có người nào xa
Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà
Cùng trong thân thích ruột rà, chẳng ai
2105. Cửa nhà buôn bán châu Thai
Thực thà có một, đơn sai chẳng hề
Thế nào nàng cũng phải nghe
Thành thân[21] rồi sẽ liệu về châu Thai[22]
Bấy giờ ai lại biết ai
2110. Dầu lòng bể rộng, sông dài thênh thênh

Nàng dầu quyết chẳng thuận tình
Trái lời nẻo trước, luỵ mình đến sau!
Nàng càng mặt ủ mày chau
Càng nghe mụ nói, càng đau như rần
2115. Nghĩ mình túng đất, sẩy chân
Thế cùng, nàng mới xa gần thở than:
Thiếp như con én lạc đàn
Phải cung, rày đã sợ làn cây cong[23]
Cùng đường dầu tính chữ tòng
2120. Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao?
Nữa khi muôn một thế nào
Bán hùm buôn sói, chắc vào lưng đâu?
Dầu ai lòng có sở cầu[24]
Tâm minh[25], xin quyết với nhau một lời
2125. Chứng minh có đất có trời
Bấy giờ vượt bể, ra khơi quản gì!
Được lời mụ mới ra đi
Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh
Một nhà dộn dịp linh đình
2130. Quét sân, đặt trác, rửa bình, thắp nhang
Bạc sinh quỳ xuống vội vàng
Quá lời nguyện hết Thành hoàng, Thổ công[26]
Trước sân lòng đã giãi lòng
Trong màn làm lễ tơ hồng[27] kết duyên
2135. Thành thân, mới rước xuống thuyền
Thuận buồm một lá, xuôi miền châu Thai

Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi
Bạc sinh lên trước tìm nơi mọi ngày
Cũng nhà hành viện[28] xưa nay
2140. Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người
Xem người, định giá, vừa rồi
Mối hàng một, đã ra mười thì buông
Mượn người, thuê kiệu, rước nàng
Bạc đem mặt bạc, kiếm đường cho xa
2145. Kiệu hoa đặt trước thềm hoa
Bên trong thấy một mụ ra vội vàng
Đưa nàng vào lạy gia đường
Cũng thần mày trắng, cũng phường lầu xanh!

Thoắt trông nàng đã biết tình
2150. Chim lồng khôn lẽ cất mình bay cao
Chém cha cái số hoa đào[29]
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!
Nghĩ đời mà ngán cho đời!
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen!
2155. Tiếc thay nước đã đánh phèn
Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!
Hồng quân[30] với khách hồng quần[31]
Đã xoay đến thế còn vần chưa tha
Lỡ từ lạc bước, bước ra
2160. Cái thân liệu những từ nhà liệu đi
Đầu xanh đã tội tình gì
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi?
Biết thân chạy thẳng khỏi trời
Cũng liều mặt phấn[32] cho rồi ngày xanh.

2165. Lần thâu gió mát trăng thanh
Bỗng đâu có khách biên đình[33] sang chơi
Râu hùm, hàm én, mày ngài[34]
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao
Đường đường một đấng anh hào[35]
2170. Côn quyền[36] hơn sức, lược thao[37] gồm tài
Đội trời đạp đất ở đời
Họ Từ tên Hải, vốn người Việt Đông[38]
Giang hồ quen thói vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo[39]
2175. Qua chơi thấy tiếng nàng Kiều
Tấm lòng nhi nữ[40] cũng xiêu anh hùng
Thiếp danh đưa đến lầu hồng[41]
Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa
Từ rằng: Tâm phúc tương cờ[42]
2180. Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
Bấy lâu nghe tiếng má đào
Mắt xanh[43] chẳng để ai vào, có không?
Một đời được mấy anh hùng
Bõ chi cá chậu chim lồng[44] mà chơi?
2185. Nàng rằng: Người dạy quá lời
Thân này còn dám coi ai làm thường!
Chút riêng chọn đá thử vàng
Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu?
Còn như vào trước ra sau
2190. Ai cho kén chọn vàng thau tại mình?

Từ rằng: Lời nói hữu tình!
Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân[45]
Lại đây xem lại cho gần
Phỏng tin được một vài phần hay không?
2195. Thưa rằng: Lượng cả bao dung
Tấn Dương[46] được thấy mây rồng có phen
Rộng thương cỏ nội, hoa hèn
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau.
Nghe lời vừa ý, gật đầu
2200. Cười rằng: Tri kỷ[47] trước sau mấy người?
Khen cho con mắt tinh đời
Anh hùng, đoán giữa trần ai[48] mới già!
Một lời đã biết đến ta
Muôn chung, nghìn tứ[49], cũng là có nhau!
2205. Hai bên ý hợp tâm đầu[50]
Khi thân, chẳng lựa là cầu mới thân!
Ngỏ lời nói với băng nhân
Tiền trăm lại cứ nguyên ngân[51] phát hoàn[52]
Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn
2210. Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên[53]
Trai anh hùng, gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng[54]

Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu[55] thoắt đã động lòng bốn phương
2215. Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm, yên ngựa, lên đàng thẳng rong
Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi, thiếp cũng một lòng xin đi.
Từ rằng: Tâm phúc tương tri[56]
2220. Sao không thoát khỏi nữ nhi thường tình[57]?
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng[58] dậy đất, bóng tinh rợp đường;
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia[59]
2225. Bằng[60] nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đón ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì?

Quyết lời dứt áo ra đi
2230. Gió đưa bằng tiện đến kỳ dặm khơi
Nàng thì chiếc bóng song mai
Đêm thâu đằng đẵng, nhặt cài then mây
Sân rêu chẳng vẽ dấu giày,
Cỏ cao hơn thước, liễu gày vài phân
2235. Đoái thương muôn dặm tử phần[61]
Hồn quê theo ngọn mây Tần[62] xa xa
Xót thay huyên cỗi, xuân già
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi?
Chốc là mười mấy năm trời
2240. Còn ra khi đã da mồi tóc sương
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng
Duyên em dầu nối chỉ hồng[63]
May ra khi đã tay bồng tay mang
2245. Tấc lòng cố quốc tha hương[64]
Đường kia, nỗi nọ, ngổn ngang bời bời

Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
Đã mòn con mắt, phương trời đăm đăm
Đêm ngày luống những âm thầm
2250. Lửa binh[65] đâu đã ầm ầm một phương
Ngất trời sát khí[66] mơ màng
Đầy sông kình ngạc[67], chật đường giáp binh[68]
Người quen thuộc, kẻ chung quanh
Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi
Đoạn trích này từng được sử dụng trong chương trình SGK Văn học 9 giai đoạn 1990-2003, nhưng đã được lược bỏ về sau.

[1] Tên ngôi chùa, nghĩa là chiêu nạp những người ẩn dật.
[2] Cư trú và chủ trì mọi công việc trong một ngôi chùa.
[3] Cũng như tiểu tăng, là người đi tu nhỏ mọn (Lời Kiều tự khiêm).
[4] Theo thầy, theo Phật, cũng như nói “quy tăng, quy Phật”.
[5] Vị sư thầy học mình.
[6] Chỉ các đồ thờ cúng quý giá.
[7] Vị sư đàn anh, lời xưng hô giữa các vị sư với nhau.
[8] Đem dâng ngày trước mặt.
[9] Tên hiệu một vị sư nữ khác mà Kiều mạo xưng là thầy học mình.
[10] Tình nghĩa đối xử hậu hĩ, thân mật.
[11] Do chữ vân phòng, chỗ ở nhà sư ở.
[12] Thông minh, sáng suốt
[13] Ánh bạc, ánh trăng sáng như bạc.
[14] Người đứng ra bố thí, thường thường để chỉ người có công với nhà chùa, hay người đi vãn cảnh chùa.
[15] Tiếng Phạn gọi chùa là già lam. Ở đây ý nói ngồi chờ nước đến chân rồi mới nhảy là khờ dại.
[16] Cùng học một thầy, một trường, ý nói Bạc bà cũng một phường chủ lầu xanh như Tú bà.
[17] Tục ngữ: “Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa”. Ở đây mượn ý ấy để nói Thuý Kiều đã mang tiếng trốn chúa và ăn cắp, thế nào cũng bị người ta dị nghị.
[18] Bạc bà địa đặt ra mà nói Kiều là một oan gia kiếp trước vào nhà mình để chực gây tai hoạ cho mình.
[19] Phá nhà.
[20] Cũng như xe tơ, nghĩa là lấy chồng.
[21] Làm lễ hợp hôn, thành vợ chồng.
[22] Chỗ Bạc Hạnh buôn bán, thuộc tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc).
[23] Cổ ngữ: “Thương cung chi điểu, kiến khúc mộc nhi cao phi”, nghĩa là con chim đã bị thương vì cung thì thấy cái cong cũng sợ mà bay cao.
[24] Cầu đến, hỏi đến, ý nói muốn cưới làm vợ.
[25] Lấy lòng thực mà thề với nhau.
[26] Ý nói Bạc Hạnh thề rằng nếu mình không tốt với Kiều thì xin thành hoàng, thổ công chứng giám.
[27] Tức là Nguyệt lão, vị thần xe dây cho người nên vợ nên chồng.
[28] Tên gọi khác của nhà chứa.
[29] Theo nhà thuật số đời xưa thì đào hoa làm một hung tịch, chiếu vào cung mệnh con trai thì bệnh tật, chiếu vào cung mệnh con gái thì phải làm đĩ.
[30] Chỉ con tạo
[31] Cái quần đỏ, được dùng để chỉ người con gái.
[32] Mặt trát phấn, ý thân phận người con gái.
[33] Nơi biên ải xa xôi.
[34] Tướng mại của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm.
[35] Anh hùng hào kiệt.
[36] Côn: món võ đánh bằng gậy; quyền: món võ đánh bằng tay.
[37] Mưu lược về các dùng binh, do chữ “Lục thao, Tam lược” là hai pho binh thư đời xưa mà ra.
[38] Chỉ tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) ở về phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.
[39] Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: “Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, Nhất trạo giang sơn tận địa duy” (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, Chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông).
[40] Chỉ người đẹp.
[41] Do chữ hồng lâu.
[42] Tương cờ tức tương kỳ, lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỷ chứ không phải là cái tình yêu đương trăng gió tạm bợ.
[43] Nguyên Tịch đời Tấn trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói Từ Hải hỏi Kiều, xưa nay nàng chưa hề xem trọng ai có phải không?
[44] Chỉ hạng người tầm thường, sống trong vòng giam hãm câu thúc.
[45] Chính tên là Triệu Thắng, một trong thần nhà Triệu thời Chiến Quốc, được phong đất ở Bình Nguyên nên gọi là Bình Nguyên Quân, nổi tiếng là người hiếu khách. Cao Thích đời Đường có câu: “Vị tri can đảm hướng thuỳ thị, Linh nhân khước ức Bình Nguyên Quân” (Chẳng biết gan mật hướng vào ai, Khiến người ta lại nhớ Bình Nguyên Quân).
[46] Tên đất, nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tuỳ, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói Thuý Kiều tin tưởng là Từ Hải sẽ làm nên sự nghiệp đế vương.
[47] Người hiểu biết mình.
[48] Bụi bậm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vụ gì để phân biệt với người thường.
[49] Do chữ thiên tứ (nghìn cỗ xe), chỉ cảnh giàu sang.
[50] Tâm tình và ý nghĩa đều tương đắc với nhau.
[51] Số tiền bỏ ra khi trước.
[52] Đưa trả lại.
[53] Tám vị tiên là Chung Ly Quyền, Lã Động Tần, Trương Quả Lão, Lý Thiết Quái, Lam Thái Hoà, Tào Quốc Cữu, Hà Tiên Cô, Hàn Tương Tử. Người ta hay vẽ hình tám vị tiên này trên màn trướng.
[54] Xưa Kính Trọng người nước Tần được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: “Phượng hoàng vu phi...” (Chim phượng hoàng cùng bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này dùng ý hai điển ấy để nói Từ Hải, Thuý Kiều đẹp duyên với nhau.
[55] Ở đây có nghĩa là đàn ông tài giỏi, có chí lớn.
[56] Biết nhau từ trong thâm tâm, hiểu rõ bụng dạ của nhau.
[57] Cái tính thông thường của đàn bà, con gái.
[58] Tức chính cổ, chỉ chung chiêng trống. Tinh: tức tinh kỳ, chỉ chung cờ quạt, tượng trưng cho nghi vệ và đội ngũ quân lính ngày xưa.
[59] Do chữ nghi kỳ thất gia ở Kinh thi, ý nói vợ chồng hoà hợp. ở đây, hai chữ nghi gia có nghĩa là gái về nhà chồng.
[60] Một loại chim rất lớn. Sách “Trang tử” có câu “Bằng chi tỉ ư Nam minh đã, đoàn phù dạo nhi thường giả cửu vạn lý” (Chim bằng khi rời biển Nam, vỗ cánh trong làn gió cuốn mà bay lên chín vạn dặm tầng không). Người ta thường dùng hình ảnh ấy để chỉ người anh hùng có địa bàn hoạt động rộng rãi, có mưu đồ sự nghiệp lớn lao.
[61] Hán Cao Tổ quê ở Phần Du, sau khi làm vua có về làng ấy chơi. Người sau bèn dùng hai chữ phần du để chỉ quê nhà, ở đây hợp với chũ tang tử thành tử phần để chỉ quê nhà.
[62] Thơ Hàn Dũ đời Đường: “Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại?” (Mây che ngang núi Tần, biết quê nhà ở đâu?) Ý nói Kiều nhớ nhà.
[63] Ý nói Kiều tuy dứt tình với Kim Trọng, nhưng lòng vẫn không quên chàng, cũng vì như ngó sen bị bẻ gãy, mà sợi tơ vẫn liền với nhau.
[64] Có nghĩa là quê nhà đất khách.
[65] Do chữ binh hoả nghĩa là giặc giã.
[66] Cái khí dữ dội của cảnh chém giết, thường được dùng để chỉ cảnh binh đao sát phạt.
[67] Hai giống cá to, dữ, thường được dùng để chỉ những tay kiệt hiệt trong đám giặc giã.
[68] Áo giáp và binh khí, đây dùng để chỉ quân lính.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Du » Hồi 18