07/05/2024 13:37Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Cận đại
Đăng bởi hongha83 vào 08/03/2010 18:56
Nguyên tác
帝鄉山水浩漫漫,
淚落旌旗見漢關。
社稷至今勞石馬,
風雲何路擁金鑾。
斗牛天外孤槎遠,
沙草城邊曉角寒。
空賦登樓愁極目,
五陵煙樹接長安。
Phiên âm
Đế hương[1] sơn thuỷ hạo man man,
Lệ lạc tinh kỳ kiến Hán quan[2].
Xã tắc chí kim lao thạch mã[3],
Phong vân hà lộ ủng kim loan.
Đẩu ngưu thiên ngoại cô tra viễn,
Sa thảo thành biên hiểu giác hàn.
Không phú Đăng lâu[4] sầu cực mục,
Ngũ lăng yên thụ tiếp Trường An.Dịch nghĩa
Cảnh non nước làng vua trông mênh mông
Thấy bóng cờ quạt nhà Hán mà sa nước mắt
Xã tắc đến nay còn làm ngựa đá mệt mỏi
Gió mây lối nào giúp được xe vàng vững chắc
Chiếc bè lên sao ngưu đẩu xa cách ngoài trời
Bãi cỏ bên thành sáng nghe kèn lạnh lùng
Lên lầu luống buồn trông ngút mắt
Năm lăng cây khói liên tiếp tận Trường AnBản dịch của Lê Thước, Vũ Đình Liên, Hà Văn Đại
Lăng vua non nước ngó mênh mang
Cờ Hán nhìn xem lệ mấy hàng
Xã tắc đến nay phiền ngựa đá
Gió mây nào chốn đón xe vàng
Trời sao bè chảy nhìn xa bóng
Thành cỏ còi vang lúc tản sương
Đọc phú Đăng lâu sầu mỏi mắt
Trường An phong cảnh tiếp năm lăng
(Nam chi tập)
Hạc Thành tức tỉnh Thanh Hoá.
[1] Quê hương của vua. Nhà Nguyễn chính quê ở Thanh Hoá.
[2] Quan nhà Hán, ý nói nước mất, trông thấy cờ quạt nhà vua cũ mấ nước mắt.
[3] Ngựa đá. Niên hiệu Trùng Hưng nhà Trần (1285-1293) giặc Nguyên xâm phạm Chiêu Lăng, những ngựa đá trước lăng chân đều lấm bùn. Sau dẹp yên giặc, vua Trần Nhân Tông có câu thơ: Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, sơn hà thiên cổ diện kim âu (Xã tắc hai phen chồn ngựa đá, non sông muôn thưở vững âu vàng). Tích “thạch mã” lấy ở hai câu thơ ấy, gợi ý lăng tẩm nhà Nguyễn ở Thanh Hoá cũng bị giặc xâm phạm.
[4] Tên bài phú của Vương Xán, nội dung tỏ lòng nhớ quê hương.