19/03/2024 18:37Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tráng du
壯遊

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi Vanachi vào 25/10/2005 20:06

 

Nguyên tác

往昔十四五,
出遊翰墨場。
斯文崔魏徒,
以我似班揚。
七齡思即壯,
開口詠鳳凰。
九齡書大字,
有作成一囊。
性豪業嗜酒,
嫉惡懹剛腸。
脫略小時輩,
結交皆老蒼。
飲酣視八极,
俗物都茫茫。
東下姑蘇臺,
已具浮海航。
到今有遺恨,
不得窮扶桑。
王謝風流遠,
闔廬丘墓荒。
劍池石壁仄,
長洲荷芰香。
嵯峨閶門北,
清廟映迴塘。
每趨吳太伯,
撫事淚浪浪。
枕戈憶勾踐,
渡浙想秦皇。
蒸魚聞匕首,
除道哂要章。
越女天下白,
鑒湖五月涼。
剡溪蘊秀异,
欲罷不能忘。
歸帆拂天姥,
中歲貢舊鄉。
氣劘屈賈壘,
目短曹劉墻。
忤下考功第,
獨辭京尹堂。
放蕩齊趙間,
裘馬頗清狂。
春歌藂臺上,
冬獵青丘旁。
呼鷹皂櫪林,
逐獸雲雪岡。
射飛曾縱鞚,
引臂落鶖鶬。
蘇侯據鞍喜,
忽如攜葛強。
快意八九年,
西歸到咸陽。
許與必詞伯,
賞遊實賢王。
曳裾置醴地,
奏賦入明光。
天子廢食召,
群公會軒裳。
脫身無所愛,
痛飲信行藏。
黑貂不免敝,
斑鬢兀稱觴。
杜曲晚耆舊,
四郊多白楊。
坐深鄉黨敬,
日覺死生忙。
朱門任傾奪,
赤族迭罹殃。
國馬竭粟豆,
官雞輸稻粱。
舉隅見煩費,
引古惜興亡。
河朔風塵起,
岷山行幸長。
兩宮各警蹕,
萬里遙相望。
崆峒殺氣黑,
少海旌旗黃。
禹功亦命子,
涿鹿親戎行。
翠華擁英岳,
螭虎啖豺狼。
爪牙一不中,
胡兵更陸梁。
大軍載草草,
凋瘵滿膏肓。
備員竊補袞,
懮憤心飛揚。
上感九廟焚,
下憫萬民瘡。
斯時伏青蒲,
廷爭守御床。
君辱敢愛死,
赫怒幸無傷。
聖悊體仁恕,
宇縣復小康。
哭廟灰燼中,
鼻酸朝未央。
小臣議論絕,
老病客殊方。
郁郁苦不展,
羽翮困低昂。
秋風動哀壑,
碧蕙捐微芳。
之推避賞從,
漁父濯滄浪。
榮華敵勛業,
歲暮有嚴霜。
吾觀鴟夷子,
才格出尋常。
群凶逆未定,
側佇英俊翔。

Phiên âm

Vãng giả, thập tứ ngũ.
Xuất du hãn mặc trường.
Tư văn Thôi Nguỵ[1] đồ,
Dĩ ngã tự Ban Dương[2].
Thất linh tứ tức tráng,
Khai khẩu vịnh phụng hoàng.
Cửu linh thư đại tự,
Hữu tác thành nhất nang.
Tinh hào, nghiệp thi tửu,
Tật ố hoài cương trường.
Thoát lược tiểu thi bồi,
Kết giao giai lão thương.
Ẩm hàm thị bát cực,
Tục vật đô mang mang.
Đông há Cô Tô đài[3],
Dĩ cụ phù hải hàng.
Đáo kim hữu di hân,
Bất đắc cùng Phù Tang.
Vương Tạ[4] phong lưu viễn,
Hạp Lư[5] khâu mộ hoang.
Kiếm Trì[6] thạch bích trắc,
Trường Châu[7] kỷ hà hương.
Tha nga Xương Môn[8] bắc,
Thanh miếu[9] ánh hồi đường.
Mỗi xu Ngô Thái Bá[10],
Phủ sự lệ lang lang.
Chẩm qua ức Câu Tiễn[11],
Độ Chiết tưởng Tần Hoàng[12].
Chưng ngư văn chuỷ thủ[13],
Trừ đạo sẩn yêu chương[14].
Việt[15] nữ thiên hạ bạch,
Giám hồ[16] ngũ nguyệt lương.
Diễm khê[17] uẩn tú dị,
Dục bãi bất năng vương.
Quy phàm phất Thiên Mụ[18],
Trúng tuế cống cựu hương.
Khí my Khuất Giả[19] luỹ,
Mục đoản Tào Lưu[20] tường.
Ngỗ hạ khảo công đệ,
Độc tử kinh doãn đường.
Phóng đãng Tề Triệu[21] gian,
Cừu mã phả thanh cuồng.
Xuân ca Tùng Đài[22] thượng,
Đông lạp Thanh Khâu[23] bàng.
Hồ ưng Tạo Lịch lâm,
Trục thú Vân Tuyết cương.
Xạ phi tằng túng khống,
Dẫn tý lạc thu thương.
Tô hầu[24] cứ yên hỉ,
Hốt như huề Cát Cương[25].
Khoái ý bắt cửu niên,
Tây quy đáo Hàm Dương[26].
Hứa dữ tất tử bá,
Thương du thực hiển vương.
Duệ cử tri lễ địa.
Tấu phú nhập Minh Quang[27].
Thiên tử phế thực triêu,
Quán công hội hiên thường.
Thoát thân vô sở thu,
Thống ẩm tín hành tàng[28].
Hắc điêu bất miễn tệ,
Ban mấn ngột xứng trường.
Đỗ khúc hoán kỷ cưu,
Tứ giao đa bạch dương.
Toạ thâm hương đảng kinh,
Nhật giác tử sinh mang.
Chu môn nhiệm khuynh đoạt,
Xích tộc điệt la ương.
Quốc mã kiệt túc dậu,
Quan kê[29] thâu đạo lương.
Cử ngưng kiến phiền phí,
Dẫn cổ tích hưng vong.
Hà sóc[30] phong trần khởi,
Mân sơn[31] hành hạnh trường.
Lưỡng cung[32] các cảnh tất,
Vạn lý dao tương vương.
Không Động[33] sát khí hắc,
Thiếu Hải[34] tinh kỳ hoàng.
Vũ Công[35] diệc mệnh tử,
Trác Lộc[36] thân nhung hàng.
Thuý hoa ủng Ngô nhạc,
Ly hổ[37] dạm sài lang.
Trảo nha nhất bất trúng,
Hồ binh[38] cánh lục lương.
Đại quân chiến thảo thảo,
Điêu trái mãn cao hoang.
Bị viên thiết bỏ cổn,
Ưu phẫn tâm phi dương.
Thượng cảm cửu miếu phần[39],
Hạ mẫn vạn dân sang.
Tư thì phục thanh bồ,
Đình tráng thủ ngự sàng.
Quận nhục cảm ái tử,
Hách nộ hạnh vô thương.
Thánh triết thể nhân thừ,
Vũ huyện phục tiểu khang.
Khốc miếu hôi tần trung,
Tị toan triều Vị Ương[40].
Tiểu thần nghị luân tuyệt,
Lão bệnh khách thù phương.
Uất uất khổ bất triển,
Vũ cách khốn đê ngang.
Thu phong động ai hác,
Bích huệ quyên vi phương,
Chi Thôi[41] tị thưởng tòng,
Ngư phủ trạc Thương Lang[42],
Vinh hoa dịch huân nghiệp,
Tuế mộ hữu nghiêm sương.
Ngô quan Chi Di Tử[43],
Tài cách xuất tâm thường.
Quần hung nghịch vị định,
Trác trữ anh tuấn tường.

Dịch nghĩa

Xưa ta mười bốn, mười lăm tuổi,
Đã ra đi lại trong làng bút mực
Hạng nhà văn như Thôi, Nguỵ,
Ví ta với Ban, Dương.
Năm lên bảy, ý tứ đã mạnh mẽ,
Mở miệng làm thơ vịnh phượng hoàng.
Lên chín viết được chữ cỡ lớn,
Sáng tác thành một phong cách riêng.
Tính hào phóng, lại mê thích rượu,
Ghét thói xấu, lòng ngay thẳng cứng cỏi.
Đi lại qua loa với bạn bè thuở bé,
Kết giao với những người tóc hoa râm.
Uống say, nhìn ra tám cõi,
Thấy mênh mông toàn những thứ tầm thường.
Phía đông xuống đài Cô Tô,
Định dong buồm vượt biển khơi.
Đến nay chỉ còn một điều ân hận:
Chưa đến tận cùng xứ Phù Tang.
Vẻ phong lưu Vương Tạ qua lâu rồi,
Nấm mồ Hạp Lư hoang vu.
Vách đá Kiếm Trì nghiêng đổ,
Sen ấu Trường Châu còn thơm.
Phía bắc Xương Môn cao ngất.
Thanh Miếu lồng bóng xuống nước ao.
Mỗi lần đến viếng Ngô Thái Bá,
Ngẫm chuyện cũ chứa chan dòng lệ
Gối ngọn giáo nhớ Câu Tiễn,
Qua sông Chiết nghĩ đến Tần Thuỷ Hoàng.
Nghe chuyện giấu dao trong cá chín
Cười người treo ấn để lộ ngang lưng.
Gái Việt trắng trẻo nhất thiên hạ,
Tháng Năm, nước Kính hồ vẫn mát,
Khe Diễm đẹp đẽ khác thường.
Ra về không thể nào quên được!
Cõi thuyền về ngang qua núi Thiên Mụ,
Đúng vào năm quê nhà tiến cử cống sĩ.
Chí khí át cả đồn luỹ Khuất Giả,
Mắt xem thường tường vách Tào Lưu.
Vì trái ý quan chấm thi nên hỏng,
Một mình rời công đường quan kinh doãn,
Rong chơi trong vùng Tề Triệu.
Mặc áo cừu cưỡi ngựa, ngóng mà thanh cao.
Mùa xuân, hát trên Tùng Đài,
Mùa đông, săn ở Thanh Khâu.
Hò như chim cắt rừng Tạo Lịch,
Chạy đuổi thú gò Vân Tuyết.
Phi ngựa buông cương mà bắn.
Giơ tay lên là chim thu thương rơi
Ông Tô Dự níu yên tấm tắc khen,
Bỗng như thấy đi cùng Cát Cương.
Tám chín năm sống sảng khoái,
Rồi đi về tây đến Hàm Dương.
Kết bạn văn chương đều là từ bá,
Chơi bời đi lại toàn là bậc hiền vương.
Mặc áo thụng đến nơi sang trọng,
Dâng bài phú vào đền Minh Quang.
Đức vua bỏ ăn ra vời đón,
Các nhà quyền quý vời vào hội áo mũ xênh xang.
Nhưng ra đi không giữ lại được gì,
Uống say, phó mặc hành tàng cho tự nhiên.
Áo điêu đen chẳng khỏi có lúc rách,
Tóc hoa râm càng ngất ngưỡng chuốc chén.
Xóm Đỗ, lớp già cả đã đổi thay,
Ngoài đồng, cây bạch dương nhiều hơn.
Ngồi lâu được xóm làng kính nể,
Thấy chuyện sống chết hàng ngày mà bàng hoàng.
Cửa son mặc chèn ép cướp đoạt nhau,
Rồi lần lượt bị giết cả ba họ!
Ngựa vua ăn nhẵn thóc đậu,
Gà quan thu hết nếp kê.
Nêu đôi việc để thấy sự quấy nhiễu, hao tốn;
Dẫn chuyện xưa để thương cuộc phế hưng
Gió bụi nổi lên ở Hà Bắc,
Vua chạy dài ra Mân Sơn.
Hai cung đều giới nghiêm,
Cách xa muôn dặm ngóng trông nhau.
Ở Không Động, sát khí mờ mịt,
Ở Thiếu Hải, cờ quạt vàng hoe.
Cùng nhường ngôi cho con như Hạng Vũ,
Cũng thân đi đánh dẹp như việc Trác Lộc.
Cờ tán che rợp cùng Ngô Nhạc,
Rồng cọp lăm nuốt cáo cầy.
Một phen giơ nanh vuốt vồ không trúng.
Khiến giặc Hồ càng bướng bỉnh hơn.
Quân triều đình nhọc nhằn đánh dẹp.
Cảnh điêu tàn như bệnh đã nguy ngập
Tự nghĩ mình lạm dự vào hàng quan giúp vua.
Nên lòng dấy lên nỗi lo lắng, căm giận
Trên cảm vì chín miếu cháy tan,
Dưới thương xót muôn dân đau khổ
Lúc ấy phủ phục dưới chiếu thanh bồ,
Bên giường vua dâng lời can gián
Vua nhục, mình đâu dám sợ chết,
Nhưng may cơn giận cũng không can gì!
Bậc thánh triết giàu lòng khoan thứ,
Đất nước được tạm yên vui.
Khóc trước miếu trong đống tro tàn,
Cay mùi sụt sùi vào chầu cung Vị Ương.
Chức quan nhỏ hết đường ăn nói,
Già bệnh lại lưu lạc phương xa.
Lòng ấm ức khổ vì không giải bày được,
Lông cánh bị bó buộc khó tung bay.
Gió thu thổi xao xuyến khe núi não nùng,
Huệ xanh gượng toả mùi thơm yếu ớt.
Chi Thôi tránh ban thưởng công theo vua,
Ông chài giặt rửa bên sông Thương Lương
Khi vinh hoa đã lên ngang huân nghiệp,
Thì như năm tàn đầy sương gió.
Ta xem ông Chi Di,
Tài ba cốt cách vượt thói thường.
Bọn phản nghịch hung tàn chưa dẹp yên,
Hãy nép mình cho kẻ hào kiệt bay nhảy.

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu

Nhớ xưa mười bốn tuổi
Đi lại chốn văn chương
Danh sĩ như Thôi, Nguỵ
Sánh ta với Ban, Dương
Lên bảy ý hùng mạnh
Làm thơ vịnh phượng hoàng
Lên chín, viết chữ lớn
Thơ văn riêng một đường
Hào phóng mà mê rượu
Thẳng ngay ghét thói thường
Xa lánh bạn hồi nhỏ
Kết giao hạng tóc sương
Uống say nhìn tám cõi
Chỉ thấy những đồ xoàng
Đông nhắm Cô Tô xuống
Dong buồm vượt đại dương
Đến nay còn mối hận
Chưa tới được Phù Tang
Vương Tạ phong lưu hết
Hạp Lư nấm cỏ hoang
Đá nát trơ thành Kiếm
Hương thơm nức xứ Trường
Xướng Môn cao ngất mái
Thanh Miếu nước lồng gương
Viếng thăm Ngô Thái Bá
Chuyện cũ lệ ngùi thương
Gối giáo mơ Câu Tiễn
Qua sông tưởng Thuỷ Hoàng
Nghe chuyện dao mình cá
Cười người lưng ấn chương
Nõn nà con gái Việt
Mát mẻ nước hồ Gương
Khe Diễm trông thanh tú
Ra về cứ vấn vương
Buồm thẳng xuôi Thiên Mụ
Vừa đến tuổi thi hương
Nguỵ Nguyên thua khí mạnh
Trinh Thục cũng tài thường
Hỏng vì trái giám khảo
Một mình giã phủ đường
Tề Triệu rong chơi khắp
Cừu mã cứ thanh cuồng
Thanh Khâu đông săn thú
Tùng Đài xuân hát vang
Nhữ ưng rừng Tạo Lịch
Đuổi thú núi Vân Cương
Buông dây phi ngựa bắn
Tay vẫy rớt thu thương
Tô Dự vỗ yên ngợi
Khác chi được Cát Cường
Tám chín năm thong thả
Tây lại tới Hàm Dương
Thưởng văn, hàng thúc bá
Kết bạn, bậc hiền vương
Dự yến nơi quyền quý
Dâng phú điện Minh Quang
Công khanh xe ngựa họp
Bỏ bữa vua vời thường
Ra đi là hết cả
Cứ rượu, mặc hành tàng
Điêu cừu sao khỏi rách
Uống cho tóc điểm sương
Xóm Đỗ thay kỳ cựu
Ngoài đồng lắm bạch dương
Sống lâu ra lão đại
Còn mất thấy bàng hoàng
Cửa son đầy cướp đoạt
Ba họ phải tai ương
Ngựa vua ăn đậu hết
Gà chọi ngốn kê vàng
Ngoài ra bao phí tổn
Hưng phế nghĩ mà thương
Gió bụi mờ Hà Bắc
Vua lánh tới Mân Phương
Hai cung đều giới cấm
Trông ngóng vạn thôi đường
Không Đồng sát khí rợp
Thiếu Hải tinh kỳ trương
Vũ Công truyền đế vị
Trác Lộc dẹp biên cương
Lọng cờ che đỉnh núi
Rồng cọp nuốt đầy chương
Nanh vuốt giương vồ trượt
Giặc Hồ thêm quật cường
Quân triều càng mỏi mệt
Như bệnh thấm vào xương
Đã làm quan giúp nước
Lòng cứ mãi lo lường
Trên buồn chín miếu cháy
Dưới xót vạn dân thường
Quỳ gối tâu trên chiếu
Dâng lời can trước giường
Nhục vua, đâu sợ chết
May sấm sét còn nương
Nhân thứ lòng minh triết
Non sông lại thái khương
Tro tàn khóc trước miếu
Sụt sùi chầu Vị Ương
Chức nhỏ khó bàn bạc
Già ốm lại tha phương
Bó tay lòng ấm ức
Lông cánh bực khôn giương
Hang hốc hơi thu quyện
Huệ biếc nhả thừa hương
Chi Thôi từ thưởng lộc
Như phủ rửa sông Thương
Vinh hiển ngang huân nghiệp
Năm tàn lạnh lẽo sương
Ta xem ông Phạm Lãi
Tài cách vốn phi thường
Chưa dẹp xong hung bạo
Nhường anh tuấn đảm đương
(Năm 766)

[1] Thôi Thượng và Nguỵ Khải Tâm, hai danh sĩ cùng thời với Đỗ Phủ.
[2] Ban Cố và Dương Hùng, danh sĩ đời Hán.
[3] Nay còn di tích ở Tô Châu, tỉnh Giang Tô, tương truyền do vua Ngô Hạp Lư dựng lên.
[4] Vương Đạo và Tạ An đời Tấn.
[5] Vua Ngô, mộ ở Hồ Khẩu (Tô Châu).
[6] Thuộc Tô Châu, tương truyền là nơi Hạp Lư đúc gươm.
[7] Di tích còn ở Tô Châu ngày nay.
[8] Cửa thành Tô Châu.
[9] Miếu thờ Ngô Thái Bá.
[10] Bác của vua Văn Vương nhà Chu.
[11] Việt Vương Câu Tiễn.
[12] Tần Thuỷ Hoàng.
[13] Thích khách Chuyên Chư theo lệnh Công tử Quang (Ngô Hạp Lư) dùng kế giấu dao nhọn trong bụng cá nướng, dâng thức ăn thừa cơ giết Vương Liêu cướp ngôi.
[14] Nói về Chu Mãi Thần.
[15] Chiết Giang và Thiệu Hưng bây giờ.
[16] Một hồ đẹp ở Chiết Giang.
[17] Ở Chiết Giang.
[18] Ở Chiết Giang.
[19] Khuất Nguyên và Giả Nghị.
[20] Tào Thực và Lưu Trinh.
[21] Hai nước ở trong khoảng các tỉnh Sơn Tây, Hà Bắc, Hà Nam ngày nay. Đỗ Phủ có thời gian ngao du tại đây khi còn trẻ khoảng năm Khai Nguyên thứ 23 (734).
[22] Ở Hàm Đan của vua Triệu thời Chiến Quốc.
[23] Nơi Tề Cảnh Công thời Xuân Thu hay đến săn bắn.
[24] Tô Dự, bạn săn bắn của Đỗ Phủ.
[25] Tướng của Tân Sơn Giản.
[26] Kinh đô nhà Tần, ám chỉ Trường An, kinh đô nhà Đường.
[27] Tên một điện đời Hán, mượn Hán chỉ Đường.
[28] Hành: ra giúp đời, tàng: về ở ẩn. Đỗ Phủ bị dèm pha, bị điều đi làm chức uý ở Hà Tây vào năm Thiên Bảo thứ 14 (755) nhưng ông không đi.
[] Tô Tần đời Chiến Quốc du thuyết cầu tiến thân, sang nước Tần mặc chiếc áo cừu đen đến rách nát mà vẫn không được dùng.
[29] Đường Huyền Tông có thú vui nuôi ngựa cho mặc áo xanh đỏ ăn thóc đậu làm trò, lại bắt dân nộp lúa nộp kê để nuôi gà đá.
[30] Chỉ loạn An Lộc Sơn (755).
[31] Nơi vua Huyền Tông xa giá chạy nạn, nay thuộc Tứ Xuyên.
[32] Chỉ Đường Huyền Tông và Túc Tông.
[33] Núi ở Cam Túc, phía tây Trường An.
[34] Thiếu Hải ở phía đông, ý nói khắp đông tây nơi nào cũng có loạn.
[35] Vua Vũ nhà Hạ truyền ngôi cho con là Khải, đây ý chỉ Huyền Tông truyền ngôi cho Túc Tông.
[36] Nơi Hoàng Đế đánh với Xuy Vưu, chỉ việc Túc Tông thân chinh.
[37] Chỉ quân vua Đường.
[38] Chỉ quân An Lộc Sơn.
[39] Chỉ cung điện nhà Đường.
[40] Nói về việc Đỗ Phủ không được Túc Tông tin dùng nên bỏ Trường An mà đi.
[41] Giới Chi Thôi hay Giới Tử Thôi đời Xuân Thu theo Tấn Văn Công bôn tẩu, vua đói cắt thịt đùi mình dâng cho vua ăn, hoạn nạn 19 năm. Sau vua lấy lại ngôi, ban thưởng nhưng Giới Tử không nhận.
[42] Người hiền nước Sở bị dèm pha nên vua ruồng bỏ, có làm thiên Ngư phủ, đoạn cuối có câu “Nước sông Thương Lang trong chừ, ta giặt giải mũ! Nước sông Thương Lang đục chừ, ta rửa chân!“
[43] Hiệu của Phạm Lãi thời Xuân Thu, bỏ quan chu du Ngũ hồ sau khi giúp Việt vương Câu Tiễn diệt được nước Ngô.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Tráng du