05/05/2024 00:09Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Ngục trung ký Tử Do nhị thủ kỳ 2
獄中寄子由二首其二

Tác giả: Tô Thức - 蘇軾

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Bắc Tống, Liêu
Đăng bởi Hà Như vào 11/04/2013 18:15

 

Nguyên tác

柏台霜氣夜淒淒,
風動琅璫月向低。
夢繞雲山心似鹿,
魂飛湯火命如雞。
眼中犀角真吾子,
身後牛衣愧老妻。
百歲神遊定何處,
桐鄉知葬浙江西。

Phiên âm

Bách đài[1] sương khí dạ thê thê,
Phong động lang đang[2] nguyệt hướng đê.
Mộng nhiễu vân san[3] tâm tự lộc[4],
Hồn phi thang hoả mệnh như kê[5].
Nhãn trung tê giác[6] chân ngô tử,
Thân hậu ngưu y[7] quý lão thê.
Bách tuế thần du định hà xứ,
Đồng Hương[8] tri táng Chiết Giang tê (tây).

Dịch nghĩa

Hơi sương đêm ở Bách đài buồn lạnh lẽo,
Vòng xích động leng keng ánh trăng xế tà.
Trong mơ, được về quê hương, lòng thấp thỏm không yên,
Hồn sợ nước sôi lửa bỏng mạng sống như gà.
Mắt nhìn thấy tướng mạo của con cũng không tục,
Sau khi chết mặc áo trâu thẹn với vợ già.
Khi trăm tuổi thần về đâu là định,
Dân Đồng Hương biết táng ta ở tây Chiết Giang.

Bản dịch của Lê Xuân Khải

Đêm sương Đài Bách lạnh lùng qua
Vòng xích leng keng ánh nguyệt tà
Mấy núi mơ quanh tim tựa dẽ[9]
Nước than hồ sợ mạng như gà
Sừng tê trước mắt nhìn con trẻ
Áo nghé sau thân thẹn vợ già
Trăm tuổi thần du đâu chốn định
Đồng hương Tây Chiết táng mồ ta.
Bài này tuyển từ Tô Thức thi tập quyển 19 do Trung Hoa thư cục xuất bản.


[1] Chỉ Ngự sử đài, đời hán phủ Ngự sử trồng nhiều bách nên có tên.
[2] Tiếng kêu leng keng của giây xích sắt (tiếng tượng thanh).
[3] Trong mơ nghĩ đến quê hương.
[4] Tim đập nhanh không yên (như hươu chạy).
[5] Tựa gà vịt trong bếp, tiếp cận với nước sôi lửa bỏng, ý là sắp chết trong ngục.
[6] Hậu Hán thư, Lý Cố truyện chép: “Mạo trạng hữu kỳ biểu, đỉnh giác nặc tê” (vẻ mặt có nét lạ, đỉnh đầu có giấu sừng tê) chỉ xương đầu nhô lên dưới tóc, hình dung đứa con có dáng vẻ khác người.
[7] Loại áo kết bằng cỏ dùng để chống rét cho trâu. Vương Chương đời Hán nghèo bị ốm, từng nằm trong “áo trâu” để vĩnh biệt vợ.
[8] Tên đất. Chu Ấp đời hán lúc sắp chết dặn con: “Ta trước đây làm quan ở Đồng Hương, dân yêu ta, ắt tắng ta ở Đồng Hương”. Trước khi vào ngục, tác giả làm tri Hồ Châu cho nên sau khi chết được táng ở Chiết Tây. Câu thơ này tác giả tự chú: “Ta ở trong ngục nghe tin dân ở Hồ Châu vì ta lập đàn giải ách hàng tháng nên có câu thơ này”.
[9] Dịch là “tim tựa dẽ” do “dẽ run” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Tô Thức » Ngục trung ký Tử Do nhị thủ kỳ 2