27/04/2024 02:35Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Bi cụ
悲懼

Tác giả: Đặng Trần Côn - 鄧陳琨

Thể thơ: Cổ phong (cổ thể); Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 20/02/2006 16:52

 

Nguyên tác

自從別後風沙隴
明月知君何處宿
古來征戰場
萬里無人屋
風熬熬兮打得人顏憔
水深深兮怯得馬蹄縮
戍夫枕鼓臥龍沙
戰士抱鞍眠虎陸
今朝漢下白登城
明日胡窺青海曲
青海曲青山高復低
青山前青溪斷復續
青山上雪蒙頭
青溪下水沒腹
可憐多少鐵衣人
思歸當此愁顏蹙
錦帳君王知也無
艱難誰為畫征夫
料想良人經歷處
蕭關角瀚海隅
霜村雨店
虎落蛇區
風餐露宿
雪脛冰鬚
登高望雲色
安復不生愁
自從別後東南徼
東南知君戰何道
古來征戰人
性命輕如草
鋒刃下溫溫挾纊主恩深
時刻中歷歷橫戈壯士夭
祈山舊塚月茫茫
淝水新墳風裊裊
風裊裊空吹死士魂
月茫茫曾照征夫貌
征夫貌兮誰丹青
死士魂兮誰哀弔
可憐爭鬪舊江山
行人過此情多少
古來征戰幾人還
班超歸時鬢已斑
料想良人馳騁外
三尺劍一戎鞍
秋風沙草
明月關山
馬頭鳴鏑
城上緣竿
功名百忙裏
勞苦未應閒

Phiên âm

Tự tòng biệt hậu phong sa lũng
Minh nguyệt tri quân hà xứ túc
Cổ lai chinh chiến trường
75. Vạn lý vô nhân ốc
Phong ngao ngao hề đả đắc nhân nhan tiều
Thuỷ thâm thâm hề khiếp đắc mã đề súc
Thú phu chẩm cổ ngoạ Long sa
Chiến sĩ bão yên miên hổ lục
80. Kim triêu Hán há Bạch Đăng thành
Minh nhật Hồ khuy Thanh Hải khúc
Thanh Hải khúc thanh sơn cao phục đê
Thanh sơn tiền thanh khê đoạn phục tục
Thanh sơn thượng tuyết mông đầu
85. Thanh khê hạ thuỷ một phúc
Khả liên đa thiểu thiết y nhân
Tư quy đương thử sầu nhan xúc
Cẩm trướng quân vương tri dã vô
Gian nan thuỳ vị hoạ chinh phu
90. Liệu tưởng lương nhân kinh lịch xứ
Tiêu Quan giác hãn hải ngung.
Sương thôn vũ điếm
Hổ lạc xà khu
Phong xan lộ túc
95. Tuyết hĩnh băng tu
Đăng cao vọng vân sắc
An phục bất sinh sầu
Tự tòng biệt hậu đông nam kiếu
Đông nam tri quân chiến hà đạo
100. Cổ lai chinh chiến nhân
Tính mệnh khinh như thảo
Phong nhận hạ ôn ôn hiệp khoáng chủ ân thâm
Thời khắc trung lịch lịch hoành qua tráng sĩ yểu
Kỳ sơn cựu trủng nguyệt mang mang
105. Phì thuỷ tân phần phong niểu niểu
Phong niểu niểu không xuy tử sĩ hồn
Nguyệt mang mang tằng chiếu chinh phu mạo
Chinh phu mạo hề thuỳ đan thanh
Tử sĩ hồn hề thuỳ ai điếu
110. Khả liên tranh đấu cựu giang sơn
Hành nhân quá thử tình đa thiểu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hoàn
Ban Siêu quy thời mấn dĩ ban
Liệu tưởng lương nhân trì sính ngoại
115. Tam xích kiếm nhất nhung yên
Thu phong sa thảo
Minh nguyệt quan sơn
Mã đầu minh đích
Thành thượng duyên can
120. Công danh bách mang lý
Lao khổ vị ưng nhàn

Bản dịch của Đoàn Thị Điểm, Phan Huy Ích

65. Chàng từ đi vào nơi gió cát,
Đêm trăng này nghỉ mắt phương nao?
Xưa nay chiến địa dường bao,
Nội không muôn dặm xiết sao dãi dầu.
Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn,
70. Dòng nước sâu ngựa nản chân bon.
Ôm yên gối trống đã chồn.
Nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh.
Nay Hán xuống Bạch Thành[1] đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải[2] dòm qua.
75. Hình khe thế núi gần xa,
Đứt thôi lại nối thấp đà lại cao.
Sương đầu núi buổi chiều như gội,
Nước lòng khe nẻo lội còn sâu.
Não người áo giáp bấy lâu,
80. Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây.
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ,
Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?
Tưởng chàng rong ruổi mấy niên,
Chẳng nơi hãn hải[3] thì miền Tiêu Quan[4].
85. Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ,
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong.
Lên cao trông thức mây lồng[5],
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương?
Chàng từ chốn đông nam khơi nẻo,
90. Biết nay chàng tiến thảo[6] nơi đâu.
Những người chinh chiến bấy lâu,
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây.
Nức hơi mạnh ân dày từ trước,
Trải chốn nghèo tuổi được bao nhiêu.
95. Non Kỳ[7] quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phì[8] gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Chinh phu tử sĩ mấy người,
100. Nào ai mạc mặt[9] nào ai gọi hồn?
Dấu binh lửa nước non như cũ,
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.
Phận trai già ruổi chiến trường,
Chàng Siêu[10] tóc đã điểm sương mới về.
105. Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ,
Ba thước gươm một cỗ nhung yên.
Xông pha gió bãi trăng ngàn,
Tên reo[11] đầu ngựa giáo dan[12] mặt thành.
Áng công danh trăm đường rộn rã,
110. Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi.
[1] Thành Bạch Đăng. Vua Hán Cao Tổ từng bị vây ở đấy.
[2] Tên đất. Đời Đường, rợ Thổ Cốc Hồn hùng cứ ở đấy.
[3] Bãi sa mạc.
[4] Tên cửa ải ở nơi hiểm trở. Các đời Đường, Tống xây luỹ đắp đồn chống rợ Thổ Phồn.
[5] Điển tích: Đời Đường, Địch Nhân Kiệt đi đánh giặc xa nhà, lên núi cao trông đám mây trắng ở xa xa, nói với quân sĩ rằng “Cha mẹ ta ở dưới đám mây trắng ấy”, ý nói nhớ nhà.
[6] (Tiến: đi tới; thảo: đánh dẹp giặc cướp).
[7] Kỳ Sơn, núi Kỳ Liên, đời Hán, Hoắc Khứ Bệnh đánh rợ Hung Nô ở đây. Có bản chép câu này là: “Non Kỳ mộ chỉ trăng theo”.
[8] Phì Thuỷ, tên sông. Bồ Kiên nước Tần, đem hàng trăm vạn quân đánh Tấn ở sông này, thua trận, quân sĩ mười phần chết mất tám chín, thây đắp thành gò.
[9] Vẽ ra nét mặt. (Dịch chữ “đan thanh” (đan: sắc đỏ; thanh: sắc xanh).
[10] Tức Ban Siêu, danh tướng đời Hán, theo việc binh nhưng ra xứ Tây Vực ở 31 năm, lập nhiều công lớn, khi về đã quá 80 tuổi.
[11] Từ chữ “minh đích” (minh: kêu; đích: mũi tên bịt sắt): tên nỏ bịt sắt, bắn đi vang ra tiếng.
[12] Từ chữ “duyên can” (duyên: leo; can: cán cây giáo): leo ngọn giáo mà lên mặt thành (duyên - doan).

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đặng Trần Côn » Bi cụ