29/03/2024 14:31Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tống Lý hiệu thư nhị thập lục vận
送李校書二十六韻

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 03/02/2015 15:40

 

Nguyên tác

代北有豪鷹,
生子毛盡赤。
渥窪騏驥兒,
尤異是龍脊。
李舟名父子,
清峻流輩伯。
人間好少年,
不必須白晰。
十五富文史,
十八足賓客。
十九授校書,
二十聲輝赫。
眾中每一見,
使我潛動魄。
自恐二男兒,
辛勤養無益。
幹元元年春,
萬姓始安宅。
舟也衣彩衣,
告我欲遠適。
倚門固有望,
斂衽就行役。
南登吟白華,
已見楚山碧。
藹藹咸陽都,
冠蓋日雲積。
何時太夫人,
堂上會親戚。
汝翁草明光,
天子正前席。
歸期豈爛漫,
別意終感激。
顧我蓬屋姿,
謬通金閨籍。
小來習性懶,
晚節慵轉劇。
每愁悔吝作,
如覺天地窄。
羨君齒髮新,
行己能夕惕。
臨岐意頗切,
對酒不能吃。
回身視綠野,
慘澹如荒澤。
老雁春忍饑,
哀號待枯麥。
時哉高飛燕,
絢練新羽翮。
長雲濕褒斜,
漢水饒巨石。
無令軒車遲,
衰疾悲夙昔。

Phiên âm

Đại Bắc[1] hữu hào ưng,
Sinh tử mao tận xích.
Ác Oa[2] kỳ ký nhi,
Vưu dị thị long tích.
Lý Chu danh phụ tử,
Thanh tuấn lưu đồ bá.
Nhân gian hảo thiếu niên,
Bất tất tu bạch tích.
Thập ngũ phú văn sử,
Thập bát túc tân khách.
Thập cửu thụ hiệu thư,
Nhị thập thanh huy hách.
Chúng trung mỗi nhất kiến,
Sử ngã tiềm động phách.
Tự khủng nhị nam nhi,
Tân cần dưỡng vô ích.
Càn Nguyên nguyên niên[3] xuân,
Vạn tính thuỷ an trạch,
Chu dã ý thải y,
Cáo ngã dục viễn thích.
Ỷ môn cố hữu vọng,
Liễm nhẫm tựu hành dịch.
Nam đăng ngâm "Bạch hoa[4]",
Dĩ kiến Sở sơn bích.
Ái ái Hàm Dương đô,
Quan cái nhật vân tích.
Hà thì thái phu nhân,
Đường thượng hội thân thích.
Nhữ ông thảo minh quang,
Thiên tử chính tiền tịch.
Qui kỳ khởi lạn mạn,
Biệt ý chung cảm kích.
Cố ngã bồng ốc tư,
Mậu thông kim khuê tịch.
Tiểu lai giai tính lãn,
Vãn tiết dung chuyển kịch.
Mỗi sầu hối lận tác,
Như giác thiên địa trách.
Tiện quân xỉ phát tân,
Hành kỷ năng tịch dịch.
Lâm kỳ ý phả thiết,
Đối tửu bất năng cật.
Hồi thân thị lục dã,
Thảm đạm như hoang dịch.
Lão nhạn xuân nhẫn cơ,
Ai hào đãi khô mạch.
Thì tai cao phi yến,
Huyến luyện tân vũ cách.
Trường vân thấp bao tà,
Hán thuỷ[5] nhiêu cự thạch.
Vô lệnh hiên xa trì,
Xuy tật bi túc tích.

Dịch nghĩa

Vùng Đại Bắc có con chim ưng khoẻ,
Đẻ ra con toàn lông màu đỏ.
Đúng là con ngựa nòi vùng Ác Oa,
Còn lạ hơn nữa đúng là xương sống của rồng.
Lý Chu là con của một người cha nổi tiếng,
Là đầu đàn trong đám thanh cao tuấn tú.
Là một chàng trai tốt trong đời,
Chẳng cần phải nói rõ làm chi nữa.
Mới mười lăm tuổi đã biết nhiều về văn, sử,
Mười tám tuổi đủ sức dự vào hàng tân khách.
Mười chín tuổi giữ chức hiệu thư,
Hai mươi tuổi tiếng tăm vang dội.
Mỗi khi thấy anh ta trong đám đông,
Cứ khiến lòng tôi thầm cảm kích.
Cứ sợ rằng chàng trai ở tuổi hai mươi,
Cái công giáo dục trở nên vô ích.
Mùa xuân đời Càn Nguyên năm đầu,
Mọi người đang yên lành ở trong nhà,
Chàng Chu ta mắc áo màu sặc sỡ,
Cho tôi hay là anh ta định đi xa.
Tựa cửa cố nhìn theo,
Áo quần gọn ghẽ để lên đường.
Xuôi nam ngâm khúc "Bạch hoa",
Đã thấy màu xanh biếc của núi vùng Sở.
Sầm uất thay là thành Hàm Dương,
Mũ áo xe quan ngày một tích luỹ nhiều như mây,
Lúc này thì bà mẹ chàng ta,
Ở nhà trên gặp gỡ người thân thích.
Bà căn dặn: Bố mi vừa được bổ nhiệm,
Ngay trước mặt nhà vua.
Ngày về há dám trễ nải,
Cái ý ra đi lại càng thêm xúc động.
Cứ coi tôi đây vốn có tính quê mùa,
Hiểu sai cung cách của nhà sang.
Từ thuở bé đã quen tính lười,
Về già tính ỳ lại càng nặng thêm.
Khi buồn ăn năn vì lầm lỡ,
Có cảm giác như trời đất thu hẹp lại.
Thèm được như cháu tóc đen, răng cứng,
Chuyên chú theo đuổi lý tưởng của mình.
Khi chia tay ý lại càng tha thiết hơn,
Trước chén rượu không nuốt nổi.
Quay đầu nhìn lại cánh đồng xanh,
Ảm đạm như cái đầm hoang.
Chim nhạn già vào mùa xuân cố chịu đói,
Kêu thương đợi lúa mạch khô.
Thỉnh thoảng có con chim yến bay cao,
Để chau chuốt lại cái bộ lông mới.
Đám mây dầy như cái áo chùng ướt thụng xuống,
Sông Hán lại có nhiều đá lớn.
Không cho hòm xe chậm trễ,
Suy bệnh nên buồn về những điều trước kia.

Bản dịch của Phạm Doanh

Đại bắc có chim ưng uy lực,
Sinh ra con đỏ rực bộ lông.
Đúng là con giống cháu dòng,
Dáng hình kỳ lạ đúng rồng đó thôi.
Cha Lý Chu, một người nổi tiếng,
Rõ ràng là một đấng quyền oai.
Thiếu niên rạng rỡ tên đời,
Chẳng cần bàn cãi rạch ròi làm chi.
Mười lăm đã lai ly văn sách,
Mười tám, làm thân khách nhà to.
Mười chín giữ chức hiệu thư,
Hai mươi danh tiếng nổi như sấm rền.
Trong đám đông, mỗi lần được thấy,
Khiến lòng ta lại dấy lên thôi.
Những e trai tuổi hai mươi,
Công ơn dậy dỗ một đời uổng sao.
Thời Càn Nguyên năm đầu, xuân đó,
Mọi nhà đang ăn ở yên lành.
Chàng Chu mặc áo long lanh,
Chào tôi từ biệt du hành nơi xa.
Tựa cửa còn nhìn ra theo mãi,
Rõ dáng người hăng hái đi ra.
Xuôi nam ngâm khúc "Bạch hoa",
Đã thấy vùng Sở chan hoà núi xanh.
Để thấy Hàm Dương thành sầm uất.
Mũ áo quan chất ngất như mây.
Bà mẹ ngay trong lúc này,
Trong nhà cùng với một bày người thân.
"Cha mày là vị quan sáng giá,
Trước thềm vua lậy tạ nhiều khi.
Ngày về chớ có trù trì,
Chia tay càng cảm lâm ly bồi hồi."
Vì tôi là một người quê kệch,
Lệ nhà vàng biết đếch gì đâu.
Từ trẻ tính đã lau chau,
Tới già lại thấy có mầu nặng hơn.
Mỗi khi sai, lòng buồn hối hận,
Tưởng đất trời tán loạn đến nơi.
Mong được như cháu khoẻ người,
Theo đuổi chí hướng tới nơi thoả lòng.
Khi chia tay ý càng tha thiết,
Chén rượu nồng có nuốt được đâu.
Quay mình nhìn cánh đồng sâu,
Tẻ buồn giống hệt cảnh ao hoang tàn.
Chim nhạn già mùa xuân chịu đói,
Kêu than dài chờ đợi lúa khô.
Trên cao chim yến lửng lơ,
Để chau chuốt bộ lông tơ cho nồng.
Đám mây đen buông thòng ẩm thấp,
Sông Hán đá lớn lấp giữa dòng.
Đừng khiến xe trễ trên đường,
Bệnh già nên thấy đau lòng chuyện xưa.
(Năm 758)

Lý hiệu thư tên Lý Chu 李舟, người Lũng Tây, sau được phong tước Lũng Tây huyện nam, cha Lý Sầm 李岑 giữ chức thuỷ bộ lang trung, My châu chế sứ.

[1] Chỉ khu vực tây bắc tỉnh Sơn Tây.
[2] Tên sông, thuộc Tây An, Cam Túc, truyền thuyết cho là ngựa thần xuất từ đây. Cũng viết là 渥洼.
[3] Năm 758.
[4] Tên một thiên trong Kinh Thi, nhân chàng trai bỏ nhà ra đi, người đàn bà (mẹ, vợ) ở nhà buồn nhớ.
[5] Cũng còn gọi là Hán giang, bắt nguồn từ bắc núi Bà Trủng, huyện Ninh Khương, tỉnh Thiểm Tây, chảy tới vùng Hán Khẩu với Hán Dương, tỉnh Hồ Bắc rồi nhập với sông Trường Giang.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Tống Lý hiệu thư nhị thập lục vận