19/04/2024 07:57Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Thu dạ lữ hoài ngâm
秋夜旅懷吟

Tác giả: Đinh Nhật Thận - 丁日慎

Thể thơ: Song thất lục bát; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 19/09/2014 05:28

 

Nguyên tác

秋夜靜天光隱約
隔疏簾淡酌金罍
天時人事相催
浮生若夢幾回為歡

人對景花間月照
景撩人樹梢風吹
這般料少人知
閒來風月與誰為秋

詩四絕怡愉雅愛
酒三杯瀟洒離懷
燈前獨對書齋
傷心客地有懷古人

香水外忽聞漁韻
從何來棹進江邊
徘徊月夜霜天
寒山暗認客船更非

曲江水何時大杜
一孤舟繫故園心
時留八首詩吟
令人旅思轉深鄉情

昔我往青青柳絮
兩三聲初語黃鶯
而今菊已含英
柳陰庭外寒鳴秋蟬

昔我去翻翻桃臉
兩三枝初占東風
而今蘭已成叢
桃夭軒外落從寒霜

胡為乎凄涼客舍
日優遊幾個冠童
安能夜夜書房
芭蕉泣露昆虫鳴秋

胡為乎怡愉旅館
歲逡巡已半霜煙
安能暮暮書軒
風搖庭竹月懸屋梁

不是做何郎投筆
將忠肝為國從軍
此身空冒風塵
坐中虛視寢時徒聞

不是做何人捧檄
將孝心離戚從官
他鄉何事盤桓
白雲飛處牡丹開時

今日自海濱遠顧
一輕帆直渡歸陵
鄉魂沸沸如甑
逐帆忽已破層層波

明日自山家遠朓
片孤雲帶曉浮空
鄉心裊裊如蓬
隨雲忽已過重重山

何日是鄉關雁信
悠悠難寫盡心情
夜聞妙諦鍾聲
海門鼓響御城炮催

江曲曲腸迴曲曲
景悠悠夜復悠悠
蕭條館旅亭秋
鄰家樁楮江頭棹聲

嗟客地吁縈心事
嘆閨人情緒可憐
更深燈滅案前
含情掩扇空懸月明

孤枕裡三更寤寐
片幽懷誰是為憐
情頭夜半無人
睡來報蝶醒辰鳴雞

有時或鄉閨夕炤
下堂來欲造花樓
忽驚燕葺泥巢
鸞羞炤鏡鳳愁懶梳

有時或織機夜靜
呼童來初整燈明
忽聞雁渡江聲
机慵足踏梭停手拋

可憐夜焚膏達旦
夜沉沉不見佳音
擲梭望望庭陰
霜寒蟋蟀咱吟聲愁

望不見悠悠我獨
顧閨門載復言還
咱家雞唱西欄
含情倚几挑殘孤燈

可憐日燈庭自早
日斜斜不到回書
挈衣步步康衢
蟬鳴楊柳帶愁眉看

望不見翻翻我獨
顧琴軒強欲為情
忽瞻蝶戲蘭屏
含棲穿屩復行西園

今必謂秋天靜好
我良人將到歸期
遑知世路蹺蹊
關山千里未期曷來

今必謂我離永久
自長安或抱衾裯
風情慣似風流
繁花矧又皇州帝城

苟非有人情也者
胡而春而夏而秋
由來紫閣紅樓
英雄不住丈夫難持

如此者誰知之者
煙波中使我心愁
昂藏豈少年遊
風流舊態江湖故家

旅景每從哦裡痛
鄉魂空向夢中遊
江山客亦知乎
情中更切路途艱難

雖曰已藻蘋婦事
內齊家上祀祖先
澗毛潢水微虔
安知主饋能賢婦人

可知者十分家幼
一門中共保無危
別時正在孩兒
年來想已髮垂牙生

可愛者其兄之子
年十三十四中來
吾兄亦曰幸哉
底今未覺誰開學堂

可思者同窗二契
芝蘭香細細猶聞
馬杯自挹輕塵
渭城此後故人亦辭

不知後北圻起匪
二吾兄已未回辰
嗟哉同病相憐
一瀟湘一向秦一方

將何日更相對語
敘閨情又敘客衷
而今秋月秋風
秋吟秋飲情中者誰

對離景淚垂雙眼
顧香關路限重山
酒殘獨倚欄杆
覺來眼看夜還淒涼

Phiên âm

Thu dạ tĩnh thiên quang ẩn ước
Cách sơ liêm đạm chước kim lôi
Thiên thời nhân sự tương thôi
Phù sinh nhược mộng kỷ hồi vi hoan

Nhân đối cảnh hoa gian nguyệt chiếu
Cảnh liêu nhân thụ sảo phong xuy
Giá ban liệu thiểu nhân tri
Nhàn lai phong nguyệt dữ thuỳ vi thu

Thi tứ tuyệt di du nhã ái
Tửu tam bôi tiêu sái ly hoài
Đăng tiền độc đối thư trai
Thương tâm khách địa hữu hoài cổ nhân

Hương thuỷ ngoại hốt văn ngư vận
Tòng hà lai trạo tiến giang biên
Bồi hồi nguyệt dạ sương thiên[1]
Hàn sơn ám nhận khách thuyền cánh phi

Khúc giang thuỷ hà thì Đại Đỗ[2]
Nhất cô chu hệ cố viên tâm
Thời lưu bát thủ thi ngâm
Linh nhân lữ tứ chuyển thâm hương tình

Tích ngã vãng thanh thanh liễu nhứ
Lưỡng tam thanh sơ ngữ hoàng oanh
Nhi kim cúc dĩ hàm anh
Liễu âm đình ngoại hàn minh thu thuyền

Tích ngã khứ phiên phiên đào kiểm
Lưỡng tam chi sơ chiếm đông phong
Nhi kim lan dĩ thành tùng
Đào yêu hiên ngoại lạc tùng hàn sương

Hồ vi hồ thê lương khách xá
Nhật ưu du kỷ cá quan đồng
An năng dạ dạ thư phòng
Ba tiêu khấp lộ côn trùng minh thu

Hồ vi hồ di du lữ quán
Tuế thuân tuần dĩ bán sương yên
An năng mộ mộ thư hiên
Phong dao đình trúc nguyệt huyền ốc lương

Bất thị tố hà lang đầu bút[3]
Tương trung can vị quốc tòng quân
Thử thân không mạo phong trần
Toạ trung hư thị tẩm thần (thì) đồ văn

Bất thị tố hà nhân phủng hịch[4]
Tương hiếu tâm ly thích tòng quan
Tha hương hà sự bàn hoàn
Bạch vân phi xứ mẫu đơn khai[5] thần (thì)

Kim nhật tự hải tân viễn cố
Nhất khinh phàm trực độ quy lăng
Hương hồn phí phí như tăng
Trục phàm hốt dĩ phá tằng tằng ba

Minh nhật tự sơn gia viễn diểu
Phiến cô vân đới hiểu phù không
Hương tâm niểu niểu như bồng
Tuỳ vân hốt dĩ quá trùng trùng san

Hà nhật thị hương quan nhạn tín
Du du nan tả tận tâm tình
Dạ văn Diệu Đế[6] chung thanh
Hải môn cổ hưởng ngự thành pháo thôi

Giang khúc khúc trường hồi khúc khúc
Cảnh du du dạ phục du du
Tiêu điều quán lữ đình thu
Lân gia thung chử giang đầu trạo thanh

Ta khách địa hu oanh tâm sự
Thán khuê nhân tình tự khả liên
Canh thâm đăng diệt án tiền
Hàm tình yểm phiến không huyền nguyệt minh

Cô chẩm lý tam canh ngụ mị
Phiến u hoài thuỳ thị vi lân
Tình đầu dạ bán vô nhân
Thuỵ lai báo điệp tỉnh thần minh kê

Hữu thì hoặc hương khuê tịch chiếu
Hạ đường lai dục tháo hoa lâu
Hốt kinh yến tập nê sào[7]
Loan tu chiếu kính phụng sầu lãn sơ[8]

Hữu thì hoặc chức cơ dạ tĩnh
Hô đồng lai sơ chỉnh đăng minh
Hốt văn nhạn độ giang thanh[9]
Cơ dung túc đạp thoa đình thủ phao

Khả lân dạ phần cao đạt đán
Dạ trầm trầm bất kiến giai âm
Trịch thoa vọng vọng đình âm
Sương hàn tất suất thính ngâm thanh sầu

Vọng bất kiến du du ngã độc
Cố khuê môn tải phục ngôn hoàn
Thính gia kê xướng tây lan
Hàm tình ỷ kỷ khiêu tàn cô đăng

Khả lân nhật đăng đình tự tảo
Nhật tà tà bất đáo hồi thư
Khiết y bộ bộ khang cù
Thuyền minh dương liễu đới sầu mi khan

Vọng bất kiến phiên phiên ngã độc
Cố cầm hiên cưỡng dục vi tình
Hốt chiêm điệp hý lan bình
Hàm thê xuyên cược phục hành tây viên

Kim tất vị thu thiên tĩnh hảo
Ngã lương nhân tương đáo quy kỳ
Hoàng tri thế lộ nhiêu khê
Quan san thiên lý vị kỳ hạt lai

Kim tất vị ngã ly vĩnh cửu
Tự Trường An hoặc bão khâm trù
Phong tình quán tự phong lưu
Phồn hoa thẩn hựu hoàng châu đế thành

Cẩu phi hữu nhân tình giả dã
Hồ nhi xuân nhi hạ nhi thâu (thu)
Do lai tử các hồng lâu
Anh hùng bất trụ trượng phu nan trì

Như thử giả thuỳ tri chi giả
Yên ba trung sử ngã tâm sầu
Ngang tàng khởi thiếu niên du
Phong lưu cựu thái giang hồ cố gia

Lữ cảnh mỗi tòng nga lý thống
Hương hồn không hướng mộng trung du
Giang sơn khách diệc tri hồ
Tình trung cánh thiết lộ đồ gian nan

Tuy viết dĩ tảo tần phụ sự
Nội tề gia thượng tự tổ tiên
Giản mao hoàng thuỷ vi kiền
An tri chủ quỹ năng hiền phụ nhân

Khả tri giả thập phần gia ấu
Nhất môn trung cộng bảo vô nguy
Biệt thì chính tại hài nhi
Niên lai tưởng dĩ phát thuỳ nha sinh

Khả ái giả kỳ huynh chi tử
Niên thập tam thập tứ trung lai
Ngô huynh diệc viết hạnh tai
Để kim vị giác thuỳ khai học đường

Khả tư giả đồng song nhị khế
Chi lan[10] hương tế tế do văn
Mã bôi tự ấp khinh trần
Vị Thành thử hậu cố nhân diệc từ

Bất tri hậu Bắc kỳ khởi phỉ
Nhị ngô huynh dĩ vị hồi thần
Ta tai đồng bệnh tương lân
Nhất Tiêu tương nhất hướng Tần nhất phương

Tương hà nhật cánh tương đối ngữ
Tự khuê tình hựu tự khách trung
Nhi kim thu nguyệt thu phong
Thu ngâm thu ẩm tình trung giả thuỳ

Đối ly cảnh lệ thuỳ song nhãn
Cố hương quan lộ hạn trùng san
Tửu tàn độc ỷ lan can
Giác lai nhãn khán dạ hoàn thê lương

Bản dịch của Đinh Nhật Thận

Đêm thu lặng, bóng giời thấp thoáng,
Cách rèm thưa chuốc chén gượng nguôi.
“Thiên thời nhân sự tương thôi”,
Kiếp chiêm bao dễ mấy hồi người ta?

Người đối cảnh, trước hoa trăng tỏ,
Cảnh trêu người ngọn gió rung cây.
Nỗi niềm ai kẻ tỏ hay?
Cùng ai trăng gió đêm này với thu.

Thơ nhã ái bốn câu buông vận,
Rượu ly hoài ba chén làm khuây.
Trước đèn trong chốn thư trai,
Chạnh lòng đất khách, nhớ người đời xưa.

Ngoài Hương thuỷ tiếng ngư văng vẳng,
Thuyền từ đâu chèo thẳng biên giang?
Lờ mờ đêm nguyệt trời sương,
Thuyền ai tưởng khách non Hàn, lại không!

Khúc ngư thuỷ nhớ ông Đại Đỗ,
Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ.
Hứng thu để tám bài thơ,
Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng.

Xưa ta đi liễu đang thanh tế,
Chim hoàng anh mới kể ba câu.
Bằng nay cúc đã hoa thâu,
Liễu kia cũng nghĩ âu sầu vì ve.

Khi ta đi đào khoe tiếu kiểm,
Gió đông phong mới điểm ba hàng.
Bằng nay lan đã chồi sương,
Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu.

Làm chi vậy buồn rầu đất khách,
Ngày quán đồng mượn thích làm khuây.
Có đêm nương bóng hồi tây,
Tiếng sương khóc lá hơi bay gọi trùng.

Làm chi vậy lạnh lùng quán lữ,
Năm, sương yên hết nửa đi rồi.
Có đêm ngồi nhẫn thư trai,
Gió lay bên trúc, nguyệt cài trên lương.

Nào có phải như chàng ném bút,
Vì vua mà đồng mác cho cam.
Luống đem thân thế cát lầm,
Thấy ngồi hổ mắt, nghe nằm thẹn tai.

Nào có phải như ai vâng hịch,
Vì thân mà xa cách cho xong.
Bỗng không cách địa binh bồng,
Trông mây lại nhớ, xem bông lại buồn.

Ngày nay đứng trông miền bể rộng,
Một cánh buồm gióng thẳng về cồn.
Lòng quê đâu đã cuồn cuồn,
Phút theo buồm vượt máy ngàn sóng khơi.

Ngày nay đứng trông nơi non thẳm,
Một làn mây sớm ngắm trên không.
Lòng quê đâu đã bồng bồng,
Phút theo mây kéo mấy trùng non xa.

Trông tin nhạn biết là đâu tá,
Tâm tình này ai tả cho nên.
Chuông chùa Diệu Đế cho rền,
Trống vang cửa bể, súng rên thành vàng.

Sông quạnh quẽ ruột càng quằn quại,
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu.
Lữ du ai chẳng tiêu điều,
Tiếng chày trong xóm tiếng chèo ngoài sông.

Than đất khách não nùng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ.
Đèn khuya cơn tỏ cơn mờ,
Gẫm tình che quạt luống chờ bóng trăng.

Năm canh những mơ màng trên gối,
Mảnh tình riêng biết nói cùng ai.
Thương thay đêm vắng không người,
Ngủ thời bướm báo dậy thời gà kêu.

Hoặc có lúc ban chiều trong khổn,
Bước xuống thềm lại muốn lên lầu.
Phút nghe con én kêu sầu,
Lược rầu tóc chải, gương rầu mặt soi.

Hoặc có lúc đưa thoi đêm tối,
Gọi con tì vừa tới điểm đăng.
Phút nghe tiếng nhạn khơi chừng,
Máy rời chân đạp, thoi ngừng tay đưa.

Thương thay có đêm chờ nửa gối,
Đêm gần qua chẳng thấy thư về.
Gác thoi ra đứng bên hè,
Tai nghe tiếng dế rè rè khóc sương.

Trông chẳng thấy chán chường than thở,
Đoái phòng khuê muốn trở gót giầy.
Gà ai eo óc hồi tây,
Gẫm tình tựa gối liền tay khêu đèn.

Thương thay có ngày nhìn sáu khắc,
Ngày gần tàn chẳng thấy thư sang.
Xuống thềm ra đứng bên đàng,
Mày sầu lá liễu hàng hàng khóc ve.

Trông chẳng thấy lại về đứng đợi,
Đoài cầm hiên tay gợi ngón đàn.
Bướm đâu trêu cợt bình lơn,
Buồn tình mang dép ra vườn hái hoa.

Rày hẳn bảo giời đà mát mẻ,
Lương nhân ta có dễ gần về.
Biết đâu đường thế nhiêu khê,
Dặm ngàn hồ dễ đi về cho năng.

Rày hẳn nói mình chừng lâu ở,
Ôm khâm trù hay đã có người.
Phong lưu vốn đã quen rồi,
Phồn hoa lịch sự lại mùi Tràng An.

Nếu chẳng thể bàn hoàn chi mãi,
Hết xuân rồi hạ lại sang thu.
Lầu hồng cung cấm ấy ru
Anh hùng lại với trượng phu ai từ?

Như thế ấy bây giờ ai biết,
Trông yên ba khôn xiết dạ sâu.
Há còn trai trẻ chi đâu,
Phong lưu thói cũ giang hồ lối xưa.

Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương quan trước mắt mơ màng.
Non sông khách có biết chăng,
Vẫn tình thì nhớ nhưng đường thì khơi.

Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường trọng đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao.

Duy cho trẻ đứa nào đứa ấy,
Trong gia đình đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.

Và thằng cháu giời thương cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng trộm cho anh,
Năm nay biết đã học hành cùng ai.

Bạn đèn sách một hai tri thức,
Mùi lan chi sực nức một nhà.
Từ phen chuốc chén quan hà,
Vị Thành lúc ấy rồi mà Dương Quan.

Sau chẳng biết ngoài miền bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi hương?
Thương ôi đồng bệnh cùng thương,
Một Tần lại một Tiêu Tương một trời.

Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
Mà nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu biết cùng ai hay.

Sầu ly biệt tuôn đầy hai mắt,
Bóng hương quan xa khuất dặm ngàn.
Rượu rồi ngồi dựa lan can,
Chiêm bao tỉnh giấc đêm tàn về thu.
Sách Văn đàn bảo giám của Trần Trung Viên và Thu dạ lữ hoài ngâm của Georges Cordier (Nhà in Kim Đức Giang, Hà Nội, 1925) ghi tác giả bài này là Ngô Điền, người Nam Định, thi đậu Hoàng giáp đời vua Tự Đức, trước làm quan trong nội các, sau thuyện đi nhậm ở một tỉnh xa xôi, lâu không được về quê nên có viết khúc này để than thở niềm tư gia ở nơi đất khách.

Sách Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận qua Thu dạ lữ hoài ngâm của Nguyễn Tài Chất và Nguyễn Tài Cẩn (Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản, 2008) ghi tác giả là Đinh Nhật Thận. Bản này dựa trên bản chép tay do người cháu đích tôn của Đinh Nhật Thận tặng lại cho ông Nguyễn Tài Chất, và đã được đối chiếu với các bản của Trường Thịnh Đường (in mộc bản năm 1902) và bản Nguyễn Văn Đề công bố trong cuốn Trong 99 chóp núi (do Hà Xuân Tề đề tựa ngày 4-7-1941) tại Huế. Theo đó, Đinh Nhật Thận làm bài này trong thời gian bị triều đình bắt giữ cho rằng ông liên luỵ với khởi nghĩa của Cao Bá Quát tỏ nỗi lòng nhớ quê nhà.

Bản dịch này theo bản trong Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận qua “Thu dạ lữ hoài ngâm” (Nguyễn Tài Chất và Nguyễn Tài Cẩn, Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản, 2008).
[1] Trương Kế, một thi sĩ đời Đường, trong bài thơ Phong Kiều dạ bạc có “Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên” (Quạ kêu trăng lặn trời sương).
[2] Tức Đỗ Phủ, một buổi chiều thu kia ngồi trên sông Khúc, nhân nhớ nhà mà làm tám bài Thu hứng.
[3] Ban Siêu đời Hán làm nghề viết mướn, sau vứt bút mà rằng làm trai phải lập công ngoài nghìn dặm, há cứ ngồi cạo giấy mãi ư?
[4] Mao Nghĩa đời Hán là một người hiếu hạnh làm quan uý ở phủ An Dương, được thăng quan lệnh ở phủ ấy, ông cầm tờ hịch mà lấy làm vui, vui vì cha mẹ đang còn.
[5] Tôn Tương tự khoe có phép tiên có thể làm nở ra hoa. Nghe chú là Hán Văn Công hỏi “Cháu có thể cướp quyền tạo hoá mà làm nở được hao ư?” Tương bèn lấy đất đắp lên, lấy chân úp xuống chốc thấy nở ra hai cành mẫu đơn sắc biếc, có chữ vàng: “Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại, Tuyết ủng Lam quan mã bất tiền” (Mây non Tần gác, nhà đâu tá? Tuyết ải Lam trùm, ngựa chẳng lên). Sau bị đày ra Triều Châu mới biết. Thế nên nói hoa cười thân đơn. Cười đây là mỉa mai.
[6] Chùa ở Huế.
[7] Đỗ Phủ trọ ở đất Thục định trở về quê, chợt trông thấy đôi én từ bắc vào nam ngậm bùn để làm ổ mà giật mình cho cảnh lữ du từ hạ để sang thu, bèn có câu thơ “Lữ thục song phi yến, Hàm nê nhập bắc đường” (Đôi én hay đi ăn xa, Ngậm bùn bay vào nhà làm ổ). Cổ thi lại có câu “Tích vi song phi yến, Hàm nê sào cự thất” (Trước làm đôi én chắp cánh cùng bay, Tha bùn làm tổ trong nhà người).
[8] Cổ thi vịnh tiết phụ có câu “Phụng trục thanh tiêu viễn, Loan tuỳ u cảnh trầm” (Mây thẳm, chìm tăm phượng, Gương mờ khuất bóng loan). Lại có câu: “Vị vấn thuý thoa đầu thượng phụng, Bất tri hương bệnh vị thuỳ hồi” (Hỏi thăm phượng đậu cành trâm, Vì ai mái tóc hương thơm ngạt ngào).
[9] Chức cẩm hồi văn của Tô Huệ: “Tam xuân hồng nhạn độ giang thanh, Thử thị ly nhân đoạn trường tình” (Mỗi lần nghe nhạn qua sông, Rầu lòng một thiếp ba đông nhớ chàng).
[10] Khổng Tử: “Dữ thiện nhân giao như nhập chi lan chi thất, cửu nhi bất văn kỳ hương, tức dư hoá bỉ” (Chơi với người lành như vào cái nhà có hoa chi lan, nếu lâu không biết mùi thơm nữa là vì đã hoá theo người ấy rồi.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đinh Nhật Thận » Thu dạ lữ hoài ngâm