26/04/2024 17:29Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tảo phát
早發

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 10/03/2015 22:53

 

Nguyên tác

有求常百慮,
斯文亦吾病。
以茲朋故多,
窮老驅馳並。
早行篙師怠,
席掛風不正。
昔人戒垂堂,
今則奚奔命。
濤翻黑蛟躍,
日出黃霧映。
煩促瘴豈侵,
頹倚睡未醒。
僕夫問盥櫛,
暮顏靦青鏡。
隨意簪葛巾,
仰慚林花盛。
側聞夜來寇,
幸喜囊中淨。
艱危作遠客,
幹請傷直性。
薇蕨餓首陽,
粟馬資歷聘。
賤子欲適從,
疑誤此二柄。

Phiên âm

Hữu cầu thường bách lự,
Tư văn diệc ngô bệnh.
Dĩ tư bằng cố đa,
Cùng lão khu trì tính.
Tảo hành cảo sư đãi,
Tịch quải phong bất chính.
Tích nhân giới thuỳ đường,
Kim tắc hề bôn mệnh.
Đào phiên hắc giao dược,
Nhật xuất hoàng vụ ánh.
Phiền xúc chướng khởi xâm,
Đồi ỷ thuỵ vị tỉnh.
Bộc phu vấn quán trất,
Mộ nhan điến thanh kính.
Tuỳ ý trâm cát cân,
Ngưỡng tàm lâm hoa thịnh.
Trắc văn dạ lai khấu,
Hạnh hỉ nang trung tĩnh.
Gian nguy tác viễn khách,
Can thỉnh thương trực tính.
Vi quyết ngạ Thú Dương[1],
Túc mã tư lịch sính.
Tiện tử dục thích tòng,
Nghi ngộ thử nhị bính[2].

Dịch nghĩa

Cần đến một cái là lo đến cả trăm,
Ham văn cũng là cái bệnh của tôi.
Nhờ cái này mà bạn quen cũ có nhiều,
Cùng vất vả với lão già cơ cực.
Ra đi sớm thì bác lái uể oải,
Khi giương buồm thì gió chưa lên.
Người xưa tránh nhà nghiêng,
Tại sao ngày nay phải theo lệnh gấp.
Sóng lật giao long đen bơi,
Mặt trời lên mây vàng hiện rõ.
Sao hơi nóng lại sộc tới làm ta bực mình,
Nằm nán chưa tỉnh ngủ.
Tên giữ ngựa mời tắm rửa với chải đầu,
Nét mặt ban chiều bẽn lẽn trước gương xanh.
Theo ý cài trâm quấn khăn vải dệt bằng dây sắn,
Nhìn lên thấy thẹn vì hoa rừng nở rộn.
Thoáng nghe ban đêm giặc tới,
Mừng rằng may mà trong túi trống trơn.
Là một người khách xa nhà trải bao gian nguy,
Cầu xin là làm hại đến tính thẳng thắn.
Hoặc là hái rau vi rau quyết chịu chết đói nơi núi Thú Dương,
Hoặc là cho ngựa ăn thóc chuẩn bị hành trình ra làm quan.
Thân hèn này muốn theo tới lắm,
Nhưng lại ngại hai cái cành đó.

Bản dịch của Phạm Doanh

Cần đến là trăm lo,
Văn tôi cũng là bệnh.
Nhờ nó lắm bạn bè,
Tới già còn lính quýnh.
Đi sớm bác lái rầu,
Buồm giương, gió chưa mạnh.
Người xưa tránh mái nghiêng,
Nay sao phải theo mệnh.
Sóng lật, sấu đen bơi,
Trời mọc, mây vàng ánh.
Hơi nóng khiến bực mình,
Nằm nghiêng, ngủ chưa tỉnh.
Tắm rửa, tên nài mời,
Nét mặt ngượng trong kính.
Theo ý trâm mũ soàng,
Hoa rừng nhiều, thấy khảnh
Cướp đêm tới, thoáng nghe,
May túi không đồng dính.
Gian nan thân khách xa,
Cầu xin hại thẳng tính.
Đói Thú Dương, rau vi,
Chăm ngựa chạy vạy định.
Thân hèn muốn đi theo,
Lòng ngại hai cái nhánh.
(Năm 769)

[1] Bá Di 伯夷 và Thúc Tề 叔齊 vì không chịu thần phục nhà Chu nên vào núi Thú Dương (thuộc huyện Vĩnh Tế, Sơn Tây) hái rau vi ăn, chịu chết đói.
[2] Một thiên trong sách của Hàn Phi Tử 韓非子, nói vua anh minh có biện pháp để chế ngự bầy tôi của mình là nhờ ở "hai nhánh" vậy. Hai nhánh đó là hình (trừng phạt) và đức (ban khen).

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Tảo phát