20/04/2024 05:46Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tích du (Tích ngã du Tống trung)
遣懷(昔我遊宋中)

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 28/02/2015 22:54

 

Nguyên tác

昔我遊宋中,
惟梁孝王都。
名今陳留亞,
劇則貝魏俱。
邑中九萬家,
高棟照通衢。
舟車半天下,
主客多歡娛。
白刃讎不義,
黃金傾有無。
殺人紅塵裏,
報答在斯須。
憶與高李輩,
論交入酒壚。
兩公壯藻思,
得我色敷腴。
氣酣登吹臺,
懷古視平蕪。
芒碭雲一去,
雁鶩空相呼。
先帝正好武,
寰海未凋枯。
猛將收西域,
長戟破林胡。
百萬攻一城,
獻捷不雲輸。
組練棄如泥,
尺土負百夫。
拓境功未已,
元和辭大爐。
亂離朋友盡,
合遝歲月徂。
吾衰將焉托,
存歿再嗚呼。
蕭條益堪愧,
獨在天一隅。
乘黃已去矣,
凡馬徒區區。
不復見顏鮑,
系舟臥荊巫。
臨餐吐更食,
常恐違撫孤。

Phiên âm

Tích ngã du Tống trung[1],
Duy Lương Hiếu Vương[2] đô.
Danh kim Trần Lưu á,
Kịch tắc Bối[3], Nguỵ[4] câu.
Ấp trung cửu vạn gia,
Cao đống chiếu thông cù.
Chu xa bán thiên hạ,
Chủ khách đa hoan ngu.
Bạch nhận thù bất nghĩa,
Hoàng kim khuynh hữu vô.
Sát nhân hồng trần lý,
Báo đáp tại tư tu.
Ức dữ Cao, Lý đồ,
Luận văn nhập tửu lư.
Lưỡng công trang táo tứ,
Đắc ngã sắc phu du.
Khí hàm đăng Xuy Đài[5],
Hoài cổ thị bình vu.
Mang Đãng[6] vân nhất khứ,
Nhạn vụ không tương hô.
Tiên đế[7] chính háo vũ,
Hoàn hải vị điêu khô.
Mãnh tướng thu Tây Vực[8],
Trường kích phá Lâm Hồ[9].
Bách vạn công nhất thành,
Hiến tiệp bất vân thâu[10].
Tổ luyện khí như nê,
Xích thổ phụ bách phu.
Thác cảnh công vị dĩ,
Nguyên hoà từ đại lô[11].
Loạn ly bằng hữu tận,
Hợp đạp tuế nguyệt tồ.
Ngô suy tương yên thác,
Tồn một tái ô hô[12].
Tiêu điều ích kham quý,
Độc tại thiên nhất ngu.
Thừa hoàng[13] dĩ khứ hĩ,
Phàm mã tẩu khu khu.
Bất phục kiến Nhan[14], Bão[15],
Hệ chu ngoạ Kinh, Vu.
Lâm xan thổ cánh thực,
Thường khủng vi phủ cô[16].

Dịch nghĩa

Xưa tôi đi thăm vùng Tống cũ,
Đó là kinh đô của Lương Hiếu Vương.
Đến nay so vẻ sầm uất nó đứng sau Trần Lưu,
Và nói chung nó ngang với Bối Châu, Nguỵ Châu.
Trong ấp có chín vạn nhà,
Nóc cao nhìn xuống phố xá.
Số lượng thuyền bè, xe cộ ở đây chiếm nửa số trên đời này,
Chủ lẫn khách đều vui vẻ cả.
Gươm sáng diệt kẻ phản bội,
Tiền, vàng đổi có thành không.
Những kẻ giết người trong đời này,
Chỉ trong giây phút là đã thấy báo đáp ngay.
Nhớ lúc cùng với Lý Bạch, Cao Thích,
Vào quán rượu bàn bạc văn chương.
Hai ông có nhiều ý rất sáng láng,
Khiến tôi rất khâm phục.
Đang hăng, bước lên Xuy Đài,
Nhớ lại chuyện xưa, nhìn cánh đồng rộng.
Mây núi Mang Đãng một khi đã bay đi rồi,
Nay chỉ còn nhạn với vịt trời kêu huyên náo thôi.
Vua trước là người ham chiến tranh,
Vùng đất, vùng nước chưa khô cạn.
Tướng giỏi thu vùng phía tây,
Dáo dài phá Lâm Hồ.
Hàng trăm vạn lính đánh phá một thành,
Chỉ báo tin thắng mà không nói đến thua.
Mũ vải, áo lụa vất đi như rác bùn,
Một tấc đất là mất đến cả trăm mạng lính.
Chiếm đất công chưa xong,
Thì thời thăng bình đã rời ra trong trời đất.
Vì cảnh loạn li nên hết cả bạn bè,
Liên tục ngày tháng qua đi.
Ta bệnh thôi cũng ráng chịu vậy,
Người còn kẻ mất càng đau lòng.
Buồn bã lại càng tăng thêm,
Một mình ta ở góc trời này.
Thừa hoàng đã khuất bóng rồi,
Trong khi ngựa tạp chạy đầy đường.
Đã không được thấy ông Nhan Diên Chi và ông Bão Chiếu,
Nay tôi dừng thuyền nơi Kinh Châu và Vu Giáp.
Khi ăn cơm, nuốt chẳng trôi,
Thường sợ không giúp đỡ được các đứa con côi.

Bản dịch của Phạm Doanh

Xưa ta thăm vùng Tống,
Chỗ Lương Hiếu Vương đóng.
Tên vang sau Trần Lưu,
Bối, Nguỵ ngang bậc đứng.
Chín vạn nhà trong thành,
Nhòm phố, cột cao chống.
Chiếm nửa số xe, thuyền,
Khách, chủ cùng vui sướng.
Biến có, không: tiền vàng,
Chém kẻ ác: gươm trắng.
Trên đời kẻ giết người,
Ngay đó gặp báo ứng.
Lúc cùng bạn Lý, Cao,
Chuyện thơ, nơi ăn uống.
Lòng ta thấy thoả thuê,
Ý hai ông sáng láng.
Sẵn hứng lên Xuy Đài,
Nhớ xưa, cánh đồng rộng.
Vẫn còn chim nhạn, cò,
Hết rồi mây Mang, Đãng.
Vua trước ham chiến tranh,
Đất đai còn cả vũng.
Tây vực nhờ tướng tài,
Lâm Hồ có súng ống.
Trăm vạn lính phá thành,
Chỉ được báo tin thắng.
Áo mũ cứ vất bừa,
Tấc đất đổi trăm mạng.
Chiếm đất công chưa rồi,
Thời thanh bình xa vắng.
Loạn lạc cách bạn bè,
Lần lữa qua ngày tháng.
Bệnh hoạn chịu một thân,
Đau lòng kẻ chết, sống.
Rầu rĩ càng tăng nhiều,
Chân trời lòng cay đắng.
Ngựa thồ chạy đầy đường,
Kỳ ký lại vắng bóng.
Kinh, Vu nay dừng thuyền,
Nhan, Bão chẳng thấy dáng.
Cơm ăn nuốt chẳng trôi,
Con côi không cáng đáng.
(Năm 766)

[1] Tức Tống Châu, nay là huyện Thương Khâu, tỉnh Hà Nam. Mùa thu năm 744, Đỗ Phủ cùng Lý Bạch, Cao Thích đi chơi vùng Lương, Biện Châu, nay là huyện Khai Phong, tỉnh Hà Nam.
[2] Lương Hiếu Vương dời đô từ Khai Phong tới Sư Dương, Tống Châu.
[3] Huyện Thanh Hà, tỉnh Hà Bắc.
[4] Huyện Đại Danh, tỉnh Hà Bắc.
[5] Do Lương Hiếu Vương xây tại Khai Phong, Hà Nam.
[6] Ở Từ Châu, Giang Tô. Thời hàn vi, Hán Cao Tổ trú ngụ nơi đó. Tương truyền lúc ông ở đó thường có đám mây tụ nơi hai núi.
[7] Đường Huyền Tông.
[8] Từ năm 746 tới 749, Vương Trung Tự, Cao Tiên Chi, Kha Thư Hàn chinh phạt Thổ Phồn, Thổ Cốc Hồn, Tiểu Bột Luật.
[9] Tên đời Chiến Quốc của vùng dân tộc Khiết Đan cư trú. Năm 734, Trương Thủ Khuê đại phá Khiết Đan.
[10] Các tướng đã lừa vua về tin tức chiến trường.
[11] Những năm cuối Thiên Bảo.
[12] Lý Bạch chết năm 762, Cao Thích năm 765.
[13] Hai bạn Lý Bạch và Cao Thích.
[14] Nhan Diên Chi 顏延之 (384-456), nhà văn học nước Tống thời Nam triều, tự Diên Niên 延年. Gia đình xưa có gốc ở Lang Tà (nay thuộc Sơn Đông). Cuối Đông Tấn, giữ chức chế sứ Giang Châu. Lưu Dụ 劉裕 đánh Tấn mà lập ra nhà Tống, cử ông làm thái tử xá nhân. Thời vua Thiếu Đế, giữ chức Thuỳ An thái thú. Thời Văn Đế làm quan tới Kim tử Quang Lộc đại phu, nên đời sau còn tôn xưng ông là Nhan Quang Lộc 顏光禄. Ông cùng thời với Đào Tiềm và hai người xướng hoạ rất tương đắc. Sau khi Đào Tiềm qua đời ông có bài điếu văn Đào trưng sĩ lỗi 陶徵士誄.
[15] Bão Chiếu (421-465), nhà thơ thời Nam Bắc triều.
[16] Các con của hai ông Cao Thích và Lý Bạch.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Tích du (Tích ngã du Tống trung)