21/04/2024 00:41Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Đằng tiên ca
藤鞭歌

Tác giả: Cao Bá Quát - 高伯适

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 12/05/2014 13:43

 

Nguyên tác

九月望後天氣涼,
白日黯慘晨無光。
羈人蓬髮坐斷床,
悲風颯颯吹衣裳。
部丁朅來聲琅琅,
喚取蹙促赴廳堂。
翻身荷械隨雁行,
敝巾不整走且忙。
入門獄卒挾兩傍,
都人駭觀如堵牆。
大官列坐下一郎,
呼出獄具羅致將。
巨藤之鞭長且長,
膚紫肉硬揉如僵。
羈人偃臥形蒼黃,
回頭側顧如驚羊。
手伸脚直兩眼慌,
雨後濕毒烝膀胱。
良久問訊口不張,
苦道屈屈號穹蒼。
官聲霹靂摧臺樑,
電光閃閃交飛翔。
掀如雙蛟搏壞塘,
罷如冷水灌急湯。
兩木卓立勢倔彊,
呻聲十二迴修廊。
嗚呼一枝春海棠,
摧折不辨昌州香。
此時暮天迥蒼茫,
臺角為我飛清霜。
藤鞭垂垂氣不揚,
拱立繞指迴柔腸。
得喪命也人之常,
眉目如人何戚傷?
國恩家澤未少償,
勇夫那死翰墨場。
嗟哉藤鞭!
爾不見:
德江之陽,
月恆之崗。
上有半死之松柏,
突兀凍久而相望。
苟弗棄于哲匠,
固無取乎雞棲與豫章。
而何剪伐之當。

Phiên âm

Cửu nguyệt vọng hậu thiên khí lương,
Bạch nhật ảm thảm thần vô quang.
Ky nhân bồng phát toạ đoạn sàng,
Bi phong táp táp xuy y thường.
Bộ đinh khiết lai thanh lang lang,
Hoán thủ túc xúc phó sảnh đường.
Phiên thân hà giới tuỳ nhạn hàng,
Tệ cân bất chỉnh tẩu thả mang.
Nhập môn ngục tốt hiệp lưỡng bàng,
Đô nhân hãi quan như đổ tường.
Đại quan liệt toạ hạ nhất lang,
Hô xuất ngục cụ la trí tương.
Cự đằng chi tiên trường thả trường,
Phu tử nhục ngạnh nhu như cương.
Ky nhân yển ngoạ hình thương hoàng,
Hồi đầu trắc cố như kinh dương.
Thủ thân cước trực lưỡng nhãn hoang,
Vũ hậu thấp độc chưng bàng quang.
Lương cửu vấn tấn khẩu bất trương,
Khổ đạo khuất khuất hào khung thương.
Quan thanh tích lịch tồi đài lương,
Điện quang thiểm thiểm giao phi tường.
Hân như song giao bác hoại đường,
Bãi như lãnh thuỷ quán cấp thang.
Lưỡng mộc[1] trác lập thế quật cường,
Thân thanh thập nhị hồi tu lang.
Ô hô nhất chi xuân hải đường,
Tồi chiết bất biện Xương Châu[2] hương.
Thử thì mộ thiên quýnh thương mang,
Đài giác vị ngã phi thanh sương[3].
Đằng tiên thuỳ thuỳ khí bất dương,
Củng lập nhiễu chỉ[4] hồi nhu trường.
Đắc táng mệnh dã nhân chi thường,
My mục như nhân hà thích thương?
Quốc ân gia trạch vị thiểu thường,
Dũng phu na tử hàn mặc trường.
Ta tai đằng tiên!
Nhĩ bất kiến:
Đức Giang[5] chi dương,
Nguyệt Hằng[6] chi cương.
Thượng hữu bán tử chi tùng bách,
Đột ngột đống cửu nhi tương vọng.
Cẩu phất khí vu triết tượng,
Cố vô thủ hồ kê thê dữ dự chương.
Nhi hà tiễn phạt chi đương.

Bản dịch của Xuân Trang

Qua rằm tháng chín khí trời mát
Sớm ngày ảm đạm ánh nắng nhạt
Thân tù tóc rối, trên ghế long
Gió thổi áo quần nghe xào xạc
Lính lệ chạy lại miệng oang oang
Thét to, thúc giục lên công đàng
Đứng dậy mang gông theo sau hắn
Khăn tàn xốc xếch bước vội vàng
Vào cổng có lính kèm sát nách
Phố phường người xem vây kín mít
Quan to ngồi trên, dưới một thầy
Truyền đem hình cụ bày la liệt
Cây roi song lớn dài dài sao
Mình rắn da thâm, uốn chẳng vào
Thân tù nằm sấp, vẻ xanh xám
Như con dê sợ nhìn trước sau
Tay chân căng thẳng mắt mờ hoáng
Mưa tạnh hơi độc xông lên háng
Bị tra tấn mãi miệng cứng đờ
Một mực kêu trời "Khổ! oan uổng!"
Tiếng quan như sấm rường nhà rung
Ánh roi như chớp vụt tứ tung
Giơ lên, rồng quật bờ ao lở
Ngừng lại, nước dội nồi canh bồng
Đôi cọc sừng sững đứng ngạo nghễ
Mấy dãy hành lang tiếng rên xé
Than ôi! một nhánh hải đường tơ
Chẳng nể Xương Châu mà nở bẻ
Trời chiều cao thẳm lại mênh mang
Góc điện vì ta toả khí sương
Roi song buông thõng, hết giận dữ
Tay chắp, ruột mềm lòng vấn vương
Cùng thông ở đời đều bởi số
Tai mắt kém ai mà đau khổ
Nợ nhà ơn nước chưa đền xong
Chết chốn văn chương đâu phải chỗ
Này cái roi song!
Mày có thấy:
Bờ nam Đức Giang
Đỉnh núi Nguyệt Hằng
Trên có cây tùng cây bách đương chết dở
Giữa trời đông rét mướt mà vẫn đứng hiên ngang
Nếu có thợ giỏi biết đến
Thì xá chi những loài bồ kết chướng não tầm thường
Nỡ nào đốn chặt cho đang!
[1] Hình pháp triều Nguyễn, người bị đánh roi bị căng ra bằng hai cái cọc gọi là "nọc" để phạm nhân không giãy được, một cái đóng ở phía đầu để trói hai tay, một cái ở phía chân.
[2] Nguyên chú: Hoa hải đường không thơm, chỉ có một cây của Ôn Đình Quân ở Xương Châu là thơm mà thôi.
[3] Đời Chiến Quốc, Châu Diễn làm quan ở nước Yên, là một người hiền bị tội oan. Tháng năm nóng bức trời cũng có sương toả ra.
[4] Cuốn quanh ngón tay, chỉ hình thái của những vật quá mềm. Thơ Lưu Côn tặng Lữ Thẩm đời Hán có câu "Hà ý bách luyện cương, Hoá vi nhiễu chỉ nhu" (Ngờ đâu thứ thép cứng đã trăm lần tôi luyện, Lại hoá làm thứ mềm yếu uốn vào ngón tay được).
[5] Sông Đức Giang, ở quê tác giả.
[6] Núi Nguyệt Hằng, ở quê tác giả.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Cao Bá Quát » Đằng tiên ca