05/05/2024 00:59Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Du Đằng giang dữ hữu nhân đăng Kim Chung tự, tuý hậu lưu đề
遊藤江與友人登金鐘寺醉後留題

Tác giả: Cao Bá Quát - 高伯适

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 17/04/2014 21:22

 

Nguyên tác

丈夫三十不成名,
踏遍天涯氣未平。
短髮尚須憐我在,
迷陽何事泥吾行?
有奴解愛蕭才子,
無酒誰澆阮步兵?
吟罷七歌更回首,
茫茫身世獨盱衡。

Phiên âm

Trượng phu tam thập bất thành danh,
Đạp biến thiên nhai khí vị bình.
Đoản phát[1] thượng tu liên ngã tại,
Mê dương[2] hà sự nệ ngô hành?
Hữu nô giải ái Tiêu tài tử[3],
Vô tửu thuỳ kiêu Nguyễn bộ binh[4]?
Ngâm bãi thất ca[5] cánh hồi thủ,
Mang mang thân thế độc hu hành.

Dịch nghĩa

Trượng phu ba mươi tuổi, chẳng nên danh gì
Dạo khắp ven trời, khí bất bình chưa dịu
Mái tóc cằn vẫn thương ta còn sống
Cỏ mê dương, cớ sao vướng bước ta đi?
Có đầy tớ, là người biết yêu tài tử họ Tiêu
Không có rượu, ai tưới cho bộ binh họ Nguyễn?
Ngâm xong bảy bài ca ngoảnh đầu nhìn lại
Thân thế mờ mịt, chỉ đáng trừng mắt trông đời

Bản dịch của Tuấn Sinh

Trai ba mươi tuổi chẳng nên danh
Mải gót chưa nguôi nỗi bất bình
Tóc cụt vẫn còn thương sức tớ
Cỏ mê sao cứ vướng chân mình?
Có trò là kẻ thương Tiêu tử
Không rượu hòng ai chuốc bộ bình?
Ca đoạn bảy bài nhìn trở lại
Cau mày thêm giận kiếp phù sinh
Lời tựa:
Thiên sở dữ dã hữu hạn, lãm phận tảo dĩ tức cơ,
Ngô chi sinh dã vô nhai, duyệt thế thâm nhi ngụ thán.
U nhân khâu hác,
Xử sĩ viên lâm.
Dữ ngã tương di,
Tương tử vô nộ.
Hành hành thả chỉ, lộ tận bạch điền thanh trúc chi gian,
Hắc hắc hà ngôn, nhân tại lạc chiếu cô vân chi ngoại.
Bạn ngã giả thuỳ? Hữu đồng nhất tử,
Dữ dư hà sự? Duy tửu nhất hồ.
Tống công[6] chi thanh hác đan nhai, trinh phi tuyệt tục,
Hứa tử[7] chi thanh phong lãng nguyệt, đạt dĩ khoáng hoài.
Liêu đắc thú dĩ vong ngôn,
Khởi minh tâm nhi trường vãng?
Ư dĩ tốt tuế, ninh vấn giang hồ lưu ngụ chi tung,
Thuỳ kỳ tương tri, thỉnh tục Giang Hán tư quy chi vận.

天所與也有限,覽分早以息機,
吾之生也無涯,閱世深而寤歎。
幽人邱壑,
處士園林。
與我相遺,
將子無怒。
行行且止,路盡白田青竹之間,
嘿嘿何言,人在落照孤雲之外。
伴我者誰?有童一子,
與予何事?惟酒一壺。
宋公之青壑丹崖,貞非絕俗,
許子之清風朗月,達以曠懷。
聊得趣以忘言,
豈冥心而長往?
於以卒歲,寧問江湖流寓之蹤,
誰其相知,請續江漢思歸之韻。

(Trời cho ta có hạn, biết phận sớm để nghỉ ngơi
Đời ta sống không bờ, trải đời lâu mà than thở
Vườn rừng của người xử sĩ
Hang núi của bậc u nhàn
Ta trói thờ ơ
Người cũng đừng giận
Đi đi rồi nghỉ, đường đã hết ở nơi đồng vắng tre xanh
Lẳng lặng nói gì, người đã đứng ở ngoài nắng chiều mây tản
Lấy ai làm bạn?
Có chú tiểu đồng
Cùng ta mua vui
Chỉ một bầu rượu
Kìa Tống công với non xanh núi đỏ, ngay thẳng mà chẳng xa đờ
Nọ Hứa tử với gió mát trăng trong, phóng đạt mong chờ hỏi dạ
Chỉ cốt được thú vui quên lời nói
Có đâu lòng mờ mịt mà bước lan tràn
Chơi cho trọn năm, không cần hỏi dấu tích giang hồ qua lại
Ai người biết đến, xin vịnh tiếp vần thơ Giang Hán mong về)

Người ta thường gọi chỗ sông Hồng chảy qua Hưng Yên là Đằng giang vì thuộc xã Xích Đằng và Đằng Châu. Theo nghĩa bóng, người ta cũng dùng chữ Đằng giang để chỉ tỉnh Hưng Yên. Chùa Kim Chung tục gọi là chùa Chuông ở xã Xích Đằng.

[1] Tả truyện: Lư Bồ Miết là đại phu nước Tề, người rất khôn ngoan, bị Tề hầu nghi và giam giữ. Một hôm Miết nói với Tề hầu rằng “Tôi đã già tóc cằn thế này, còn làm gì nổi, xin tha cho về”. Công tử Nhã ý không muốn tha Miết, nói “Miết tuy tuổi già tóc cằn, nhưng trí lự, sâu sắc, nếu tha y, y sẽ làm hại mình”. Tề hầu bèn đem Miết an trí ở Bắc Yên.
[2] Thứ cỏ rậm có gai. Trang tử: “Mê dương, mê dương vô thương ngô hành” (Cỏ mê dương đừng làm vướng bước chân ta đi).
[3] Tức Tiêu Dĩnh Sĩ đời Đường, thuỵ Văn Nguyên, à người học rộng và biết người. Ông có đầy tớ tên là Đỗ Lượng ở với ông đã lâu năm, đôi khi cũng có quở phạt bằng roi vọt, có người bảo Đỗ Lượng sao không bỏ đi với người khác. Lượng nói không phải tôi không thể đi với người khác, nhưng tôi mến ông Tiêu là người có tài.
[4] Tức Nguyễn Tịch đời Tấn. Thế thuyết: “Vương Tốn hỏi Vương Thầm rằng Nguyễn Tịch và Tư Mã Tương Như khác nhau ở điểm nào. Thầm nói Nguyễn Tịch trong lòng chồng chất những khối, nên cần rượu để tưới vào cho tan đi”. Những khối chỉ những bất bình trong lòng.
[5] Tức bảy bài ca Càn Nguyên trung ngụ cư Đồng Cốc huyện tác ca của Đỗ Phủ làm khi ở Đồng Cốc nói lên cảnh ngộ của mình lúc loạn ly.
[6] Tấn thư: Tống Tiêm là người có tiết tháo, không chịu giao tiếp với đời. Thái thú quận Nam Sơn là Mã Ngập đem lễ vật đến chơi, Tống Tiêm cự tuyệt. Mã Ngập thán phục, làm một bài minh đề ở vách, trong đó có câu “Núi đỏ trăm trượng, đá xanh muôn tầm... Nhà gần người xa, nhọc lòng ta mong mỏi”.
[7] Hứa Tuân tự Nguyên Độ, người đời Tấn, tính tình khoáng đạt, bạn là Lưu Đạm thường nói “Mỗi lúc gió mát trăng trong, lại nhớ đến Nguyên Độ”.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Cao Bá Quát » Du Đằng giang dữ hữu nhân đăng Kim Chung tự, tuý hậu lưu đề