23/05/2024 06:47Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Cận đại
Đăng bởi tôn tiền tử vào 29/04/2020 17:16
Nguyên tác
熙朝甘作一閒人,
親故憑誰德有鄰。
入幕何裨醫國手,
閉齊惟事省吾身。
斷無他技趨時好,
尚有良能得性真。
莫嘆北門貧且屢,
詩腴道富未為貧。
Phiên âm
Hy triều cam tác nhất nhàn nhân,
Thân cố bằng thuỳ đức hữu lân.
Nhập mạc hà tì y quốc thủ,
Bế trai duy sự tỉnh ngô thân.
Đoạn vô tha kỹ xu thời hiếu,
Thượng hữu lương năng đắc tính chân.
Mạc thán bắc môn[1] bần thả lũ,
Thi du đạo phú vị vi bần.Dịch nghĩa
Thời thịnh mà cam chịu làm một kẻ nhàn,
Bạn bè thân thích ai là người có đức để kết làm láng giềng?
Vào nơi màn trướng có giúp ích gì cho việc cứu nước,
Đóng cửa phòng sách chỉ còn lo việc tu tỉnh thân mình.
Không có cách nào khôn khéo để xu thời,
Vẫn còn chút lương năng để giữ được tính chân thực.
Đừng có than vãn, ra từ cửa bắc nghèo và khổ,
Giàu thơ, giàu đạo chưa thể coi là nghèo.Bản dịch của Trần Văn Nhĩ
Thời thịnh mà cam chịu phận nhàn,
Biết ai tâm đức kết tình thâm?
Vào nơi nhàn trướng mà vô ích,
Đóng cửa phòng văn để tỉnh thân.
Chẳng chịu xu thời nhờ kỹ xảo,
Vẫn còn chân tính bởi lương năng.
Chớ than cửa bắc nơi nghèo khổ,
Giàu đạo giàu thơ chẳng thể bần.
Tuyển từ Yên Đổ tiến sĩ thi tập (VHv.1864).
[1] Bài Bắc môn trong Kinh thi nói về cảnh khó nhọc khổ ải của người làm quan.