04/05/2024 01:10Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Thục quốc huyền
蜀國絃

Tác giả: Lưu Cơ - 劉基

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Nguyên
Đăng bởi Hà Như vào 01/09/2012 15:03

 

Nguyên tác

胡笳拍斷玄冰結,
湘靈曲終斑竹裂。
為君更奏蜀國弦,
一彈一聲飛上天。
蜀國周遭五千里,
蛾眉岧岧連玉壘。
岷嶓出水作大江,
地砉天浮戒南紀。
舒為五色朝霞暉,
慘為虎豹嗥陰霏。
翕為千障雲雨入,
噓為百里雷霆飛。
白鹽雪消春水滿,
谷鳥相呼錦城暖。
巴姬倚歌漢女和,
楊柳壓橋花纂纂。
銅梁翠氣通青蛉,
碧雞啼落天上星。
山都號風寡孤泣,
杜鵑嗚咽愁幽冥。
商悲羽怒聽未了,
窮猿三聲巫峽曉。
瞿塘噴浪翻九淵,
倒瀉流泉喧木杪。
樓頭仲宣羈旅客,
故鄉渺渺皆塵隔。
含凄更聽蜀國音,
不待天明頭盡白。

Phiên âm

Hồ già[1] phách đoạn huyền băng kết,
Tương linh[2] khúc chung ban trúc[3] liệt.
Vị quân cánh tấu Thục quốc huyền,
Nhất đàn nhất thanh phi thướng thiên.
Thục quốc chu tao ngũ thiên lý,
Nga My[4] thiều thiều liên Ngọc Luỹ[5].
Mân, Ba xuất thuỷ tác đại giang[6],
Địa hoạch thiên phù giới nam kỷ.
Thư vi ngũ sắc triêu hà huy,
Thảm vi hổ báo hào âm phi.
Hấp vi thiên chướng vân vũ nhập,
Hư vi bách lý lôi đình phi.
Bạch Diêm[7] tuyết tiêu xuân thuỷ mãn,
Cốc điểu tương hô Cẩm thành[8] noãn.
Ba cơ ỷ ca Hán nữ hoà,
Dương liễu áp kiều hoa toản toản.
Đồng Lương thuý khí thông Thanh Linh[9],
Bích kê[10] đề lạc thiên thượng tinh.
San đô hào phong quả cô khấp,
Đỗ quyên ô yết sầu u minh.
Thương bi vũ nộ[11] thính vị liễu,
Cùng viên tam thanh Vu Hiệp[12] hiểu.
Cù Đường[13] phún lãng phiên cửu uyên,
Đảo tả lưu tuyền huyên mộc diểu.
Lâu đầu Trọng Tuyên[14] ky lữ khách,
Cố hương diểu diểu giai trần cách.
Hàm thê cánh thính Thục quốc âm,
Bất đãi thiên minh đầu tận bạch.

Dịch nghĩa

Khèn Hồ gẫy phách băng dầy đông kết
Đứt khúc Tương linh trúc đốm bị chẻ ra
Tấu cung đàn nước Thục để bác nghe
Khi đàn lên, từng tiếng từng tiếng bay lên trời
Chu vi nước Thục dài năm nghìn dặm
Núi Nga My cao vút liền với núi Ngọc Luỹ
Sông Mân sông Bá chảy vào Đại Giang
Nơi đất dừng trời nổi địa đầu phía nam
Khi vui làm ráng năm sắc ban mai
Khi buồn làm tiếng hổ báo gầm ngày mưa
Hợp lại thành nghìn bức chắn mây mưa kéo vào
Bực lên, nổi lôi đình vang xa trăm dặm
Tuyết núi Bạch Diêm tan, nước xuân đầy
Chim núi kêu Cẩm thành ấm lên
Con gái Ba Quận hát, con gái Thục hoà theo
Dương liễu bên cầu nở hoa trĩu cành
Khí xanh trên núi Đồng Lương thông với sông Thanh Linh
Gà biếc kêu, tiếng làm rụng sao trời
Con khỉ đầu chó hú, gió đơn côi khóc
Tiếng chim đỗ quyên khắc khoải, nỗi buồn dằng dặc
Thương buồn, vũ giận nghe chưa dứt
Ba tiếng vượn kêu Vu Hiệp sáng ra
Cù Đường phun sóng nghiêng chín vực
Dòng suối chảy ngược xối lên ngọn cây
Đứng trên lầu, Trọng Tuyên là khách xa nhà
Quê nhà xa xăm mịt mù
Ngậm nước mắt nghe âm nước Thục
Chưa sáng mà đầu đã bạc hết.

Bản dịch của Lê Xuân Khải

Băng đông cứng đàn Hồ gẫy phách
Khúc Tương Linh đứt tách trúc vằn
Bác nghe âm Thục cung đàn
Đàn rung từng tiếng vọng lên tận trời
Năm nghìn dặm chu vi đất Thục
Vút Nga Mi Luỹ Ngọc liền nhau
Đại Giang Mân Bá chảy vào
Đất dừng trời nổi địa đầu phía nam
Sáng thảnh thơi làm năm mầu ráng
Tiếng hổ gầm buồn vẳng ngày mưa
Hợp làm chướng chắn mưa qua
Giận ngoài trăm dặm nổi xa lôi đình
Tuyết Bạch Diêm tan dềnh nước ấm
Chim núi kêu thành Gấm nóng ra
Gái Ba hát gái Thục hoà
Bên cầu dương liễu nở hoa trĩu cành
Núi Đồng Lương Thanh Linh khí toả
Gà biếc kêu rụng cả sao trời
Khỉ gào, gió khóc đơn côi
Cuốc kêu khắc khoải vọng lời tiếc than
Nghe chưa dứt thương buồn vũ giận
Vu Hiệp hừng ba bận vượn kêu
Cù Đường phun sóng vực sâu
Đem dòng suối ngược xối đầu ngọn cây
Lầu Trọng Tuyên những ngày lữ khách
Nhìn cố hương xa cách mịt mùng
Nghe âm nước Thục rưng rưng
Không chờ trời sáng nhuốm sương mái đầu.
Bài này tuyển từ Thành ý bá Lưu Văn Thành công văn tập quyển 10, bản in chụp năm Long Khánh đời Minh.

[1] Đàn Hồ, chỉ Hồ già thập bát phách tương truyền do Thái Diễm (Văn Cơ) cuối đời Đông Hán làm ra.
[2] Còn gọi là Tương Nga, Tương phi, Tương phu nhân, là nữ thần sông Tương trong thần thoại cổ. Có thuyết cho là hai bà vợ của vua Thuấn là Nga Hoàng và Nữ Anh hoá ra. Sau khi vua Thuấn chết, Tương linh đánh đàn gửi nỗi buồn nhớ.
[3] Còn gọi là Tương phi trúc, truyền thuyết là sau khi vua Thuấn mất, hai bà phi khóc, nước mắt rơi vào thân cây trúc, nên cây trúc có đốm.
[4] Tên núi ở Tứ Xuyên.
[5] Tên núi ở Tứ Xuyên.
[6] Tức sông Trường Giang.
[7] Tên núi.
[8] Tên gọi tắt của Cẩm cung thành, tức là Thành Đô.
[9] Tên sông.
[10] Nay ở tây nam thành phố Côn Minh (Vân Nam), bờ phía tây Điền Trì có núi Bích Kê, tương truyền người thời cổ thấy có chim phượng hoàng bay đến kêu trên núi này, không biết là chim gì nên gọi là bích kê, lập miếu thờ làm thần.
[11] Thương và vũ là hai âm trong ngũ âm (cung, thương, giốc, chuỷ, vũ). Âm thương thì buồn, âm vũ thì mạnh mẽ.
[12] Đoạn giữa của Trường Giang, Tam Hiệp.
[13] Tức Cù Đường hiệp, đoạn tây của Trường Giang tam hiệp, là nơi nguy hiểm nhất.
[14] Tên chữ của Vương Xán, nhà văn học cuối Đông Hán, từng lánh nạn ở Kinh Châu, lên lầu thành ở Giang Lăng làm bài Đăng lâu phú.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Lưu Cơ » Thục quốc huyền