28/04/2024 08:03Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Kim Lăng hoài cổ
金陵懷古

Tác giả: Lưu Vũ Tích - 劉禹錫

Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Trung Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 21/04/2014 14:34

 

Nguyên tác

潮滿冶城渚,
日斜征虜亭。
蔡洲新草綠,
幕府舊煙青。
興廢由人事,
山川空地形。
後庭花一曲,
幽暗不堪聽。

Phiên âm

Triều mãn Dã thành chử[1],
Nhật tà Chinh Lỗ đình[2].
Sái Châu[3] tân thảo lục,
Mạc Phủ[4] cựu yên thanh.
Hưng phế do nhân sự,
Sơn xuyên không địa hình.
"Hậu đình hoa[5]" nhất khúc,
U ám bất kham thinh.

Dịch nghĩa

Nước triều dâng ngập cù lao Dã,
Mặt trời lặn nơi đình Chinh Lỗ.
Cỏ trên cù lao Sái xanh non,
Sương khói trên núi Mạc Phủ vẫn màu lam như xưa.
Triều đại hưng phế là việc của con người,
Chứ hình thể núi sông vẫn trơ trơ.
Một đoạn của bài ca "Hậu đình hoa" vọng lên,
Điệu buồn u ám nghe không nổi.

Bản dịch của Nguyễn Minh

Nước triều dâng ngập cù lao Dã
Phía tây đình Chinh Lỗ bóng tà
Cỏ cù lao Sái mượt mà
Trên non Mạc Phủ sương mờ như xưa
Việc hưng phế là do người tạo
Chứ núi sông diện mạo trơ trơ
"Hậu đình hoa" khúc thoảng đưa
Điệu buồn u ám người nghe não lòng
Kim Lăng nay là thành phố Nam Kinh, tỉnh Giang Tô.

[1] Cù lao, là nơi đúc đồng, rèn đao của nước Đông Ngô thời Tam Quốc.
[2] Đình nay ở phía bắc hồ Huyền Vũ trong thành phố Nam Kinh.
[3] Tên cù lao trên sông Trường Giang, khúc chảy qua Nam Kinh.
[4] Núi xưa tướng quân Vương Đạo người đời Đông Tấn lập mạc phủ trên núi này nên thành tên núi.
[5] Nguyên là "Ngọc thụ hậu đình hoa", tên một khúc hát uỷ mị do vua cuối cùng của nước Trần thời Nam Bắc triều viết ra cho vũ công múa hát. Ông hoang dâm vô độ nên nước Trần bị nhà Tuỳ thôn tính, trong quá trình thống nhất Trung Quốc.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Lưu Vũ Tích » Kim Lăng hoài cổ