15/05/2024 08:26Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Dẫn thuỷ
引水

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 18/02/2015 13:07

 

Nguyên tác

月峽瞿塘雲作頂,
亂石崢嶸俗無井。
雲安酤水奴僕悲,
魚復移居心力省。
白帝城西萬竹蟠,
接筒引水喉不幹。
人生留滯生理難,
斗水何直百憂寬。

Phiên âm

Nguyệt Giáp[1], Cù Đường vân tác đỉnh,
Loạn thạch tranh vanh tục vô tỉnh.
Vân An[2] cô thuỷ nô bộc bi,
Ngư Phúc di cư tâm lực tỉnh.
Bạch Đế thành tây vạn trúc bàn,
Tiếp đồng dẫn thuỷ hầu bất can.
Nhân sinh lưu trệ sinh lý nan,
Đẩu thuỷ hà trực bách ưu khoan.

Dịch nghĩa

Nguyệt Giáp, Cù Đường, mây tụ lại trên đỉnh,
Đá ngổn ngang chênh vênh, nơi này không có tục lệ đào giếng lấy nước ăn.
Tại Vân An việc đi kiếm nước uống khiến người làm công vất vả,
Dời đến vùng Ngư Phúc để ở bắt phải suy nghĩ kỹ.
Thành Bạch Đế nơi phía tây có hàng ngàn cây trúc,
Ống nứa dẫn nước không thể cạn.
Đời người trôi nổi, cuộc sống vất vả,
Một gáo nước mà phải tốn cả trăm mối lo toan.

Bản dịch của Phạm Doanh

Nguyệt Giáp, Cồ Đường, mây trên trốc,
Đá nằm ngổn ngang, không giếng múc.
Vân An, kiếm nước khổ kẻ hầu,
Ngư Phúc, rời nhà đến mệt óc.
Tây thành Bạch Đế trúc cả vạn,
Nối ống dẫn nước không để cạn.
Đời người trồi sụt, khó kiếm ăn,
Gáo nước so đo ngàn tính toán.
(Năm 766)

[1] Minh Nguyệt giáp, Du Châu, huyện Ba.
[2] Tên huyện lập ra thời Bắc Chu, đời Nguyên cải thành châu Vân Dương, nay là huyện trị Vân Dương, Tứ Xuyên.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Dẫn thuỷ