27/04/2024 07:39Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Chu xuất Giang Lăng nam phố, phụng ký Trịnh thiếu doãn Thẩm
舟出江陵南浦,奉寄鄭少尹審

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 18/05/2015 22:22

 

Nguyên tác

更欲投何處,
飄然去此都。
形骸元土木,
舟楫復江湖。
社稷纏妖氣,
干戈送老儒。
百年同棄物,
萬國盡窮途。
雨洗平沙靜,
天銜闊岸紆。
鳴螿隨泛梗,
別燕赴秋菰。
棲托難高臥,
饑寒迫向隅。
寂寥相喣沫,
浩蕩報恩珠。
溟漲鯨波動,
衡陽雁影徂。
南征問懸榻,
東逝想乘桴。
濫竊商歌聽,
時憂卞泣誅。
經過憶鄭驛,
斟酌旅情孤。

Phiên âm

Cánh dục đầu hà xứ,
Phiêu nhiên khứ thử đô.
Hình hài nguyên thổ mộc,
Chu tiếp phục giang hồ.
Xã tắc triền yêu khí,
Can qua tống lão nho.
Bách niên đồng khí vật,
Vạn quốc tận cùng đồ.
Vũ tẩy bình sa tĩnh,
Thiên hàm khoát ngạn hu.
Minh tương tuỳ phiếm ngạnh,
Biệt yến phó thu cô.
Thê thác nan cao ngoạ,
Cơ hàn bách hướng ngu (ngung).
Tịch liêu tương hú mạt,
Hạo đãng báo ân châu.
Minh trướng kình ba động,
Hành Dương nhạn ảnh tồ.
Nam chinh vấn huyền tháp[1],
Đông thệ tưởng thừa phù.
Lạm thiết Thương ca[2] thính,
Thì ưu biện khấp tru.
Kinh qua ức Trịnh[3] dịch,
Châm chước lữ tình cô.

Dịch nghĩa

Bèn muốn tới nơi nào đây,
Bồng bềnh ra khỏi thị trấn này.
Thân người như đất củi,
Thuyền chèo lại trở về với sông và hồ.
Đất nước đầy yêu khí,
Chiến tranh đưa đẩy lão nho già.
Đời người thật là một thứ đồ bỏ,
Mình tới nơi nào cũng gặp bước đường cùng.
Mưa rưới bãi cát phẳng lặng,
Trời phủ bãi cong rộng.
Ve kêu theo nhịp mái chèo đẩy,
Chim én rời bày xuống mổ hạt thóc ré vào mùa thu.
Nghỉ ngơi khó nằm yên,
Đói lạnh nên phải ghé vào bờ.
Cô đơn chỉ thấy có bọt nước,
Nườm nượp báo đáp lòng tốt giúp đỡ.
Nước dâng khiến sóng lớn ào ào,
Bóng chim nhạn nơi Hành Dương mất hút.
Đi về hướng nam hỏi tới cái giường treo,
Đi về phía đông, tưởng là mình cưỡi bè,
Nghe lén bài hát Thương ca,
Đôi lúc lo về lời khóc lóc kể lể thổn thức.
Đi qua vùng này nhớ đến chỗ nghỉ chân do quan Trịnh,
Khiến cho lòng kẻ cô đơn xa nhà vơi đi phần nào.

Bản dịch của Phạm Doanh

Vậy bây giờ tới đâu để đỗ,
Lênh đênh đành phải bỏ nơi này.
Thân hình chẳng khác cỏ cây,
Thuyền chèo tiếp tục đó đây sông ngòi.
Loạn lạc vẫn khắp nơi trong nước,
Vì chiến tranh, cất bước nho già.
Cuộc đời là cái vật thừa,
Nơi nơi gặp cảnh sa cơ lỡ làng.
Mưa tưới ướt bãi sông cát phẳng,
Trời xanh kia nuốt trửng bãi cong.
Ve kêu theo nhịp chèo vung,
Chim yến mổ hạt dưới vùng nước sâu.
Tìm chỗ đậu, có đâu nghỉ được,
Đói rét nên bắt buộc xuống bờ.
Buồn trông bọt nước lững lờ,
Lâng lâng ghi nhớ ơn nhờ vả xưa.
Nước dâng khiến sóng ùa ào ạt,
Nhạn Hành Dương bóng khuất đi rồi.
Xuôi nam nào chỗ nghỉ ngơi,
Sang đông lại ngại ai người cùng đi.
Khúc xin việc đôi khi nghe lén,
Nhưng bao lời than vãn thường hay.
Nhớ quán Trịnh khi qua đây,
Lòng buồn đất khách hoạ may bớt dần.
(Năm 768)

[1] Đời Hán, Trần Phồn làm riêng một cái giường cứ treo, không tiếp ai chỉ có Từ Trĩ tới thì mới hạ xuống để tiếp khách. Đỗ Phủ muốn hỏi ai đón ta đây, nếu đi về nam.
[2] Do Ninh Việt gõ sừng trâu mà ca lên. Việc này hàm ý tự mình tìm cách cầu quan. Thơ Đào Tiềm trong bài Tân sửu tuế, thất nguyệt phó già hoàn Giang Lăng dạ hành đồ trung thi có câu “Tương ca phi ngô sự, Y y tại ngẫu canh” 商歌非吾事,依依在耦耕 (Cầu quan chẳng phải việc ta, Thản nhiên cứ việc cày bừa đi thôi).
[3] Trịnh Trang, đời Hán lập ra, ở đây chỉ tới Trịnh Thẩm.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Chu xuất Giang Lăng nam phố, phụng ký Trịnh thiếu doãn Thẩm