19/04/2024 08:08Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tứ sầu thi
四愁詩

Tác giả: Trương Hành - 張衡

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Hán
Đăng bởi Vanachi vào 22/10/2008 10:55

 

Nguyên tác

我所思兮在太山,
欲往從之梁父艱。
側身東望涕沾翰。
美人贈我金錯刀,
何以報之英瓊瑤。
路遠莫致倚通遙,
何為懷懮心煩勞?

我所思兮在桂林,
欲往從之湘水深。
側身南望涕沾襟。
美人贈我金琅玕,
何以報之雙玉盤。
路遠莫致倚調悵,
何為懷懮心煩傷?

我所思兮在漢陽,
欲往從之隴阪長。
側身西望涕沾裳。
美人贈我貂襜榆,
何以報之明月珠。
路遠莫致倚踟躊,
何為懷懮心煩纖?

我所思兮在鴈門,
欲往從之雪紛紛。
側身北望涕沾巾。
美人贈我錦繡段,
何以報之青玉案。
路遠莫致倚增嘆,
何為懷懮心煩惋?

Phiên âm

Ngã sở tư hề tại Thái Sơn[1],
Dục vãng tòng chi Lương Phủ[2] gian.
Trắc thân đông vọng thế triêm hàn.
Mỹ nhân tặng ngã kim thác đao[3],
Hà dĩ báo chi anh quỳnh dao[4].
Lộ viễn mạc trí y[5] thông dao,
Hà vị hoài ưu tâm phiền lao?

Ngã sở tư hề tại Quế Lâm[6],
Dục vãng tòng chi Tương thuỷ[7] thâm.
Trắc thân nam vọng thế triêm khâm.
Mỹ nhân tặng ngã kim lang can[8],
Hà dĩ báo chi song ngọc bàn.
Lộ viễn mạc trí y điều trướng,
Hà vị hoài ưu tâm phiền thương?

Ngã sở tư hề tại Hán Dương[9],
Dục vãng tòng chi Lũng phản[10] trường.
Trắc thân tây vọng thế triêm thường.
Mỹ nhân tặng ngã điêu xiêm du,
Hà dĩ báo chi minh nguyệt châu[11].
Lộ viễn mạc trí y trì trù,
Hà vị hoài ưu tâm phiền tiêm?

Ngã sở tư hề tại Nhạn Môn[12],
Dục vãng tòng chi tuyết phân phân.
Trắc thân bắc vọng thế triêm cân.
Mỹ nhân tặng ngã cẩm tú đoạn,
Hà dĩ báo chi thanh ngọc án.
Lộ viễn mạc trí y tăng thán,
Hà vị hoài ưu tâm phiền uyển?

Dịch nghĩa

Nỗi lòng của ta nhớ nhung người tại núi Thái Sơn,
Muốn tới thăm người mà đường núi Lương Phủ gian nan.
Nghiêng người ngóng về đông, lệ rơi ướt áo.
Mỹ nhân tặng ta dao mạ vàng,
Biết lấy gì để báo đáp, chỉ có ngọc quỳnh dao.
Đường xa không tới nơi được mà bồi hồi,
Sao lòng ta thực ưu phiền?

Nỗi lòng của ta nhớ nhung người tại Quế Lâm,
Muốn tới thăm người mà sông Tương lại sâu.
Nghiêng người ngóng về nam, lệ rơi ướt khăn.
Mỹ nhân tặng ta đá lang can nạm vàng,
Biết lấy gì để báo đáp, chỉ có đôi ngọc bàn.
Đường xa không tới nơi được mà buồn rầu,
Sao lòng ta thực buồn phiền đau khổ?

Nỗi lòng của ta nhớ người ở Hán Dương,
Muốn tới thăm mà núi Lũng lại dài.
Nghiêng người ngóng về tây, lệ rơi ướt áo.
Mỹ nhân tặng ta áo xiêm du,
Biết lấy gì để báo đáp, chỉ có ngọc minh châu.
Đường xa không tới nơi được mà chần chừ,
Sao lòng ta thực ưu phiền?

Nỗi lòng của ta nhớ người ở Nhạn Môn,
Muốn tới thăm mà tuyết rơi nhiều.
Nghiêng người ngóng về đông, lệ rơi ướt khăn.
Mỹ nhân tặng ta một bức gấm thêu,
Biết lấy gì để báo đáp, chỉ có mâm ngọc xanh.
Đường xa không tới nơi được mà thở than,
Sao lòng ta thực tiếc nuối?

Bản dịch của Điệp luyến hoa

Nỗi niềm ta chừ tại Thái Sơn,
Muốn tìm theo ra Lương Phủ thăm.
Nghiêng sang đông ngóng lệ rơi đầm.
Mỹ nhân tặng ta kim thác đao,
Sao để báo đáp, ngọc quỳnh dao.
Đường xa khó tới chẳng cách nào,
Sao lòng u hoài tâm phiền lao?

Nỗi niềm ta chừ tại Quế Lâm,
Muốn tìm theo ra dòng Tương thăm.
Nghiêng sang nam ngóng lệ ướt khăn.
Mỹ nhân tặng ta ngọc lang can,
Sao để báo đáp, đôi ngọc bàn.
Đường xa khó tới mà buồn than,
Sao lòng u hoài tâm chẳng an?

Nỗi niềm ta chừ tại Hán Dương,
Muốn tìm theo ra núi Lũng trông.
Nghiêng sang tây ngóng lệ ướt ròng.
Mỹ nhân tặng ta áo xiêm du,
Sao để báo đáp, ngọc minh châu.
Đường xa khó tới mà lo âu,
Sao lòng u hoài tâm buồn rầu?

Nỗi niềm ta chừ tại Nhạn Môn,
Muốn tìm theo ra tuyết dập dồn.
Nghiêng sang đông ngóng lệ ướt tràn.
Mỹ nhân tặng ta bức gấm đan,
Sao để báo đáp, mâm ngọc xanh.
Đường xa khó tới mà thở than,
Sao lòng u hoài tâm trở trăn?
Bài thơ này đầu tiên được chép trong Văn tuyển, có lời tiểu dẫn viết rằng bài thơ này được Trương Hành làm trong thời gian làm quan ở Hà Gian, buồn trước việc thiên hạ ngày càng tệ hại, nên mới “bắt chước Khuất Nguyên 屈原 lấy mỹ nhân làm quân tử, lấy châu bảo làm nhân nghĩa, lấy sông sâu tuyết tán (ý nói những hiểm nguy) làm tiểu nhân” viết thành bài thơ này tỏ sự bùi bùi bất đắc chí. Bài thơ này gồm bốn chương, mỗi chương bảy câu, mỗi câu đều bảy chữ, có thể coi là tiền thân của thơ thất ngôn sau này.

[1] Núi Thái Sơn ở bắc huyện Thái An, tỉnh Sơn Đông ngày nay, còn được viết là 泰山.
[2] Lương Phủ là một núi nhỏ ở mặt nam Thái Sơn, còn được viết là 梁甫.
[3] Có thuyết cho rằng kim thác đao là dao mạ vàng, thuyết thứ hai cho rằng là loại tiền hình con dao được Vương Mãng 王莽 cho đúc ra vào đời Hán. Cả hai thuyết đều chỉ tặng vật phẩm quý giá, nhưng thuyết thứ nhất có lẽ hợp lý hơn vì là tặng vật chứ không phải tặng tiền.
[4] Ngọc quỳnh dao là một loại ngọc có thể phát sáng. Anh 英 do chữ 瑛 là ánh sáng của ngọc.
[5] Do chữ 猗, nghĩa là vậy (trợ ngữ). Những chữ y 倚 ở các đoạn dưới đều tương tự.
[6] Tên quận đời Tần, đời Hán đổi thành Uất Lâm, ở núi Trị Bố, nay là huyện Quý, tỉnh Quảng Tây.
[7] Sông Tương xuất phát từ chân núi Hải Dương ở huyện Hưng An, tỉnh Quảng Tây ngày nay, chảy về hướng đông bắc đến tỉnh Hồ Nam, tại huyện Tương Âm thì đổ vào hồ Động Đình.
[8] Đá lang can nạm vàng. Lang can là một loại đá quý đẹp như ngọc.
[9] Triều Hán Minh Đế 漢明帝 đời Đông Hán đổi quận Thiên Thuỷ thành Hán Dương, thuộc huyện Trị Ký, nay ở nam huyện Cam Cốc, tỉnh Cam Túc.
[10] Núi Lũng ở cách huyện Lũng tỉnh Thiểm Tây 60 dặm về phía tây bắc. Núi rất cao, người xưa thường nói đi 7 ngày mới qua được.
[11] Ngọc quý của nước Tần.
[12] Tên quận đời Đông Hán, nay ở tây bắc huyện Đại, tỉnh Sơn Tây.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Trương Hành » Tứ sầu thi