26/04/2024 06:35Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Thuật hoài
述懷

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi Vanachi vào 27/01/2009 00:06

 

Nguyên tác

去年潼關破,
妻子隔絕久。
今夏草木長,
脫身得西走。
麻鞋見天子,
衣袖露兩肘。
朝廷愍生還,
親故傷老丑。
涕淚授拾遺,
流離主恩厚。
柴門雖得去,
未忍即開口。
寄書問三川,
不知家在否?
比聞同罹禍,
殺戮到雞狗。
山中漏茅屋,
誰復依戶牖?
摧頹蒼松根,
地冷骨未朽。
幾人全性命?
盡室豈相偶?
欽岑猛虎場,
鬱結回我首。
自寄一封書,
今已十月後。
反畏消息來,
寸心亦何有!
漢運初中興,
生平老耽酒。
沉思歡會處,
恐作窮獨叟。

Phiên âm

Khứ niên Đồng Quan[1] phá,
Thê tử cách tuyệt cửu.
Kim hạ thảo mộc trường,
Thoát thân đắc tây tẩu.
Ma hài kiến thiên tử,
Y tụ lộ lưỡng trửu.
Triều đình mẫn sinh hoàn[2],
Thân cố thương lão xú.
Thế lệ thụ thập di,
Lưu ly chủ ân hậu.
Sài môn tuy đắc khứ,
Vị nhẫn tức khai khẩu.
Ký thư vấn Tam Xuyên[3],
Bất tri gia tại phủ?
Tỷ văn đồng ly hoạ,
Sát lục đáo kê cẩu.
Sơn trung lậu mao ốc,
Thuỳ phục y hộ dũ?
Tồi đồi thương tùng căn,
Địa lãnh cốt vị hủ.
Kỷ nhân toàn tính mệnh?
Tận thất khởi tương ngẫu?
Khâm sầm mãnh hổ trường,
Uất kết hồi ngã thủ.
Tự ký nhất phong thư,
Kim dĩ thập nguyệt hậu.
Phản uý tiêu tức lai,
Thốn tâm diệc hà hữu!
Hán vận sơ trung hưng,
Sinh bình lão đam tửu.
Trầm tư hoan hội xứ,
Khủng tác cùng độc tẩu.

Dịch nghĩa

Năm ngoái quân ta thua trận Đồng Quan,
Tôi xa cách vợ con đã lâu.
Mùa hè này cây cỏ tốt tươi,
Thoát thân chạy về phía tây.
Đi giầy gai vào chầu vua,
Áo rách còn lòi cả hai cùi chỏ.
Triều đình lại hoạt động trở lại,
Bạn quen cũ thương ta già nua bơ phờ.
Nhận chức thập di mà chảy nước mắt,
Trong cảnh loạn ly, ơn vua như thế là hậu hĩ lắm.
Cửa tre tuy có thể về được,
Nhưng chưa nỡ mở miệng xin.
Gửi thư về huyện Tam Xuyên hỏi thăm,
Không biết giờ đây gia đình ở nơi nào?
Nghe kể trong cảnh loạn lạc giặc giã,
Ngay cả gà chó cũng bị giết hại nữa là người.
Trong rừng nhà cỏ còn bị dột,
Có ai dám cứ ở lỳ nhà cũ của mình?
Gốc tùng xanh nghiêng đổ,
Đất lạnh xương chưa nát.
Mấy ai được toàn tính mệnh,
Và toàn gia được đầy đủ.
Nơi núi cao chót vót có hổ dữ,
Ấm ức ta quay đầu lại nhìn.
Từ ngày gửi phong thư,
Đến nay đã là mười tháng rồi đó.
Lại ngại có tin tức gì trở lui,
Lòng nào mà còn nghĩ ngợi được.
Vận nhà Hán mới trùng hưng,
Suốt đời mình cho đến già vẫn thường ham rượu.
Thầm nghĩ đến nơi vui mừng gặp nhau,
Ngại nỗi mình lúc đó thân già khụ mất rồi.

Bản dịch của Khương Hữu Dụng

Năm trước Đồng Quan mất,
Biệt tin con với vợ.
Hè nay cỏ cây dài,
Thoát được về tây đó.
Dép cỏ ra mắt vua,
Áo rách hai cùi hở.
Triều đình thương sống về,
Bạn bè xót già xấu.
Nhỏ lệ nhận thập di,
Lưu lạc ân vua hậu.
Tuy có thể về nhà,
Mở miệng liền sao nỡ.
Gửi thư hỏi Tam Xuyên,
Nhà cửa còn chăng hở?
Gần đây nghe hoạ tràn,
Giết sạch cả gà chó.
Trong núi túp tranh còi,
Còn ai nương cửa ngõ.
Cằn cỗi gốc tùng xanh,
Đất lạnh xương chưa rũ.
Sống sót được bao người,
Cả nhà khó đoàn tụ.
Sào huyệt giặc trên non,
Lắc đầu than, nghẹn cổ.
Từ gửi một phong thư,
Nay đã mười tháng đủ.
Lại sợ tin trả lời,
Nỗi lòng sao thế hử?
Vận Hán vừa dấy lên,
Bình sinh rượu thích thú.
Nghĩ đến buổi đoàn viên,
Sợ độc một già khổ.
(Năm 757)

[1] Ải trọng yếu của Trung Quốc, lập ra khoảng năm 196, ở Hoa Âm, phía tây của ải Hàm Cốc, bốn phía có núi sông che chở, vị thế hiểm yếu đối với Sơn Tây, Thiểm Tây, Hà Nam. Kha Thư Hàn bị An Lộc Sơn đánh bại tại đây.
[2] Túc tông lên ngôi ở Linh Vũ.
[3] Làng Phu Châu, nơi vợ con ông đang ở.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Thuật hoài