03/05/2024 06:42Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Hồi 08

Tác giả: Nguyễn Du - 阮攸

Thể thơ: Lục bát; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 30/06/2005 11:10

 

Nhờ cha đền trả nghĩa chàng, hở môi nhưng thẹn,
Nghĩ phận càng căm nỗi khách, chữ tiết bỏ đi!
(Câu 803-918)


Đêm thu một khắc một chầy,
Bâng khuâng như tỉnh như say một mình
805. Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh,
Vẫn là một đứa phong tình[1] đã quen
Quá chơi lại gặp hồi đen
Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa
Lầu xanh[2] có mụ Tú Bà,
810. Làng chơi[3] đã trở về già hết duyên
Tình cờ chẳng hẹn mà nên
Mạt cưa mướp đắng[4], đôi bên một phường
Chung lưng mở một ngôi hàng
Quanh năm buôn phấn bán hương[5] đã lề[6]
815. Dạo tìm khắp chợ[7] thì quê
Giả danh hầu hạ[8], dạy nghề ăn chơi[9]
Rủi may, âu cũng sự trời
Đoạn trường lại chọn mặt người vô duyên
Xót nàng chút phận thuyền quyên[10]
820. Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn
Mẹo lừa[11] đã mắc vào khuôn[12]
Sính nghi rẻ giá, nghinh hôn[13] sẵn ngày
Mừng thầm cờ đã đến tay[14]
Càng nhìn vẻ ngọc[15], càng say khúc vàng[16]
825. Đã nên quốc sắc, thiên hương
Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa[17]!
Về đây nước trước bẻ hoa[18]
Vương tôn[19], quý khách, ắt là đua nhau
Hẳn ba trăm lạng kém đâu
830. Cũng đà vừa vốn, còn sau là lời.

Miếng ngon kề đến tận nơi
Vốn nhà cũng tiếc, của trời cũng tham
Đào tiên đã bén tay phàm
Thì vin cành quít cho cam sự đời
835. Dưới trần[20] mấy mặt[21] làng chơi,
Chơi hoa, đã dễ mấy người biết hoa[22]!
Nước vỏ lựu, máu mào gà[23]
Mượn màu chiêu tập[24] lại là còn nguyên
Mập mờ đánh lận con đen[25],
840. Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền, mất chi?
Mụ già hoặc có điều gì
Liều công mất một buổi quỳ mà thôi
Vả đây đường sá xa xôi
Mà ta bất động, nữa người sinh nghi.
845. Tiếc thay một đoá trà mi[26]!
Con ong đã mở đường đi lối về
Một cơn mưa gió nặng nề
Thương gì đến ngọc[27], tiếc gì đến hương[28]
Đêm xuân một giấc mơ màng
850. Đuốc hoa[29] để đó, mặc nàng nằm trơ
Giọt riêng tầm tã tuôn mưa
Phần căm nỗi khách, phần dơ nỗi mình
Tuồng chi là giống hôi tanh!
Thân nghìn vàng để ô danh má hồng!
855. Thôi còn chi nữa mà mong
Đời người thôi thế là xong một đời!
Giận duyên, tủi phận, bời bời
Cầm dao, nàng đã toan bài quyên sinh[30]
Nghĩ đi nghĩ lại một mình:
860. Một mình thì chớ, hai tình[31] thì sao?
Sau dầu sinh sự thế nào
Truy nguyên[32] chẳng kẻo luỵ vào song thân
Nỗi mình âu cũng giãn[33] dần
Kíp chầy thôi cũng một lần[34] mà thôi!

865. Những là đo đắn ngược xuôi
Tiếng gà nghe đã gáy sôi[35] mái tường
Lầu mai[36] vừa rúc còi sương[37]
Mã Sinh giục giã vội vàng ra đi
Đoạn trường[38] thay lúc phân kỳ
870. Vó câu[39] khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh
Bề ngoài mười dặm trường đình[40]
Vương ông mở tiệc tiễn hành đưa theo
Ngoài thì chủ khách[41] dập dìu
Một nhà huyên với một Kiều ở trong
875. Nhìn càng lã chã giọt hồng
Rỉ tai, nàng mới giải lòng thấp cao:
Hổ sinh ra phận thơ đào[42],
Công cha, nghĩa mẹ kiếp nào trả xong?
Lỡ làng nước đục, bụi trong
880. Trăm năm để một tấm lòng từ đây
Xem gương trong bấy nhiêu ngày
Thân con chẳng kẻo mắt tay bợm già:
Khi về, bỏ vắng trong nhà,
Khi vào dùng dắng[43], khi ra vội vàng
885. Khi ăn, khi nói lỡ làng
Khi thầy[44], khi tớ[45], xem thường, xem khinh
Khác màu kẻ quý, người thanh
Ngắm ra cho kỹ, như tình con buôn

Thôi con, còn nói chi con,
890. Sống nhờ đất khách, thác chôn quê người!
Vương bà nghe bấy nhiêu lời
Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên
Vài tuần[46] chưa cạn chén khuyên[47]
Mái ngoài, nghỉ[48] đã giục liền ruổi xe
895. Xót con lòng nặng chề chề
Trước yên[49] ông đã nằn nì thấp cao:
Chúng thân yếu liễu thơ đào[50]
Dớp nhà đến nỗi giấn vào tôi ngươi
Từ đây góc bể chân trời[51]
900. Nắng mưa thui thủi, quê người một thân
Nghìn tầm[52] nhờ bóng tùng quân[53]
Tuyết sương che chở[54] cho thân cát đằng[55]
Cạn lời khách mới thưa rằng:
Buộc chân, thôi cũng xích thằng nhiệm trao[56]
905. Mai sau dầu đến thế nào
Kìa gương nhật nguyệt[57], nọ dao quỷ thần!

Đùng đùng gió giục mây vần[58]
Một xe trong cõi hồng trần như bay
Trông vời[59], gạt lệ, phân tay
910. Góc trời thăm thẳm, ngày ngày đăm đăm.
Nàng thì dặm khách xa xăm
Bạc phau[60] cầu giá[61], đen rầm ngàn mây[62]
Vi lô san sát hơi may[63]
Một trời thu để riêng ai một người
915. Dặm khuya ngất tạnh[64] mù khơi[65]
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông[66]
Rừng thu từng biếc chen hồng[67]
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn[68].
[1] Ăn chơi phóng đãng bất chính.
[2] Do chữ thanh lâu, là cái lầu sơn mầu xanh. Chữ thanh lâu nguyên chỉ lầu ở của phái quyền quý hay vua chúa, hoặc chỉ lầu ở của mỹ nhân. Về sau thanh lâu mới có nghĩa là nhà hát, nhà điếm.
[3] Thuộc loại gái điếm gái làng chơi.
[4] Chuyện cổ tích: Một người lấy mạt cưa làm cám, đợi lúc nhá nhem tối, đem ra chợ bán, lại gặp một người đem mướp đắng giả làm dưa chuột ra bán. Hai người bán lẫn cho nhau, thế là bợm lại mắc bợm. Đây nói Mã Giám Sinh và Tú Bà cùng là phường bịp.
[5] Mua những con gái ở các nơi về làm gái điếm. Phấn và hương là hai thứ nữ giới dùng để trang điểm, nên mượn để chỉ chung nữ giới.
[6] Ý nói đã thành nề nếp, đã quen nghề.
[7] Kẻ chợ, tức nơi thành thị, đô hội. Khắp chợ thì quê: lối nói cổ, có nghĩa là khắp chợ cùng quê, khắp vùng kẻ chợ đến miền thôn quê.
[8] Mượn tiếng là tìm nàng hầu vợ lẽ để về hầu hạ.
[9] Dạy nghề làm gái điếm kiếm tiền.
[10] Nguyên nghĩa là óng ả xinh tươi để chỉ người phụ nữ đẹp.
[11] Mưu mẹo lừa dối.
[12] Như nói vành, đã mắc vào vành không ra được nữa.
[13] Đón dâu.
[14] Đây mượn câu tục ngữ “Cờ đến tay ai, người nấy phất” để nói ý nghĩ của Mã: Kiều đã vào tay mình rồi muốn làm gì thì làm.
[15] Vẻ mặt đẹp như ngọc.
[16] Khúc lòng.
[17] Câu này do chữ “nhất tiếu thiên kim”: một nụ cười của người đẹp đáng giá nghìn vàng.
[18] Tức phá trinh tiết của Kiều.
[19] Chỉ con gái các nhà quý phái.
[23] Câu này ý nói đào tiên đã tới tay thì vin cành bẻ phắt đi cho thoả sự đời (tức là làm ngay cái việc “nước trước bẻ hoa” ở trên).
[20] Như nói trong cõi đời, ở đời.
[21] Mấy người.
[22] Biết giá trị của hoa. Ý nói bọn làng chơi đã dễ mấy người phân biệt được gái tân với gái mất tân.
[23] Theo sách “Bắc lý chi”, gái thanh lâu tiếp khách xong, lại lấy nước vỏ lựu máu mào gà sống để rửa, giả làm gái còn tân để đánh lừa khách chơi.
[24] Dùng cách sửa chữa làm như còn nguyên vẹn.
[25] Những người còn trẻ tuổi mà khờ dại, đây chỉ những khách chơi không sành sỏi.
[26] Một thứ hoa nở về mùa xuân đầu hạ, hoa mầu vàng nhạt rất đẹp.
[27, 28] Ngọc, hương: ngọc đẹp, hương thơm, ví với người đẹp.
[29] Do chữ hoa chúc: đuốc hoa, nến hoa.
[30] Bỏ đời sống, tức tự tử.
[31] Chỉ cha mẹ. Ý nói: Một mình thì tự tử chẳng sao, nhưng còn cha mẹ thì làm thế nào?
[32] Tìm đến căn nguyên, gốc rễ của sự việc.
[33] Nới ra. Nỗi lòng của Kiều lúc trước như bị bóp nghẹt, nay nghĩ đi nghĩ lại, thấy nới dần ra.
[34] Một lần chết. Kiều nghĩ chóng hay chậm, cũng một lần chết, nếu bây giờ nàng chết đi tất liên luỵ đến cha mẹ.
[35] Gáy ầm ỹ, dồn dập. Chữ “sôi” có hàm ý giục giã.
[36] Chòi canh về sáng.
[37] Tiếng tù và thổi lúc sớm tinh sương.
[38] Đứt ruột có nghĩa đau đớn quá (như dứt từng khúc ruột). Phân kỳ: chia đường, chia lìa mỗi người mỗi ngả như nói “chia tay”.
[39] Vó ngựa (câu: ngựa non đang sức lớn). Những chữ “khấp khểnh”, “ghập ghềnh” vừa tả con đường đi gồ ghề khó khăn, vừa ngụ ý thân thế Kiều đã long đong vất vả ngay từ lúc bước chân ra đi...
[40] Đời Tần, Hán, người ta chia đường ra từng cung, cứ năm dặm là một cung ngắn, có một cái quán, gọi là “đoản đình” (quán ngắn) mười dặm là một cung dài, lại có một cái quán nữa gọi là “trường đình” (quán dài). Tục cổ, chủ thường tiễn khách ra khỏi mười dặm đường làm tiệc tiến hành ở trường đình rồi mới trở về.
[41] Chỉ Vương ông và Mã Giám Sinh.
[42] Đây có nghĩa là con gái ít tuổi, ngây thơ.
[43] Dùng dằng, do dự, khi Mã vào trong phòng Kiều thì do dự mà khi ở phòng ra thì vội vàng.
[44, 45] Thầy, tớ: chỉ Mã và bọn tôi tớ Mã.
[46] Tuần rượu, mỗi chén rượu đôi bên cùng uống cạn là một tuần.
[47] Chén khuyên mời, đây là chén rượu tiến.
[48] Nó, hắn, y, thổ âm Nghệ Tĩnh đây chỉ Mã.
[49] Trước yên ngựa của Mã.
[50] Ý nói Kiều còn yếu ớt thơ dại, ví như cây liễu yếu cây đào non.
[51] Do chữ hải giác thiên nhai: góc biển cả, chỗ cùng nận bầu trời ý nói xa xôi hết sức.
[52] Tầm: một đơn vị đo lường cổ của Trung Quốc, dài tám thước. Nghìn tầm: 8000 thước, nghĩa bóng là cao lắm!
[53] Tùng là cây thông, một thứ cây cao lớn, thân thẳng và cứng cáp, mùa đông lá cây vẫn xanh tươi, trong văn cổ, thường dùng để tượng trưng cho người trượng phu. Quân là cây trúc, dóng thẳng đốt ngang, thân rỗng mà không cong queo, thường dùng để tượng trưng cho người quân tử.
[54] Tức che chở cho khỏi tuyết sương.
[55] Dây sắn, một loại day phải leo bám vào những cây to, người ta thường nói “cát đằng” “cát luỹ” hay “sắn bìm” để chỉ người vợ thiếp.
[56] Ý nói số trời mầu nhiệm đã buộc sợi “xích thằng”.
[57] Gương mặt trời, mặt trăng. Chữ “gương” hàm ý soi tỏ tội lỗi. Dao quỷ thần: gươm dao của quỷ thần, hàm ý trừng phạt. Ý Mã nói: nếu sau này ăn ở không thuỷ chung, sẽ có trời soi tỏ tội lỗi và bị quỷ thần trừng phạt.
[58] Tả xe Kiều đi mau lẹ, vội vã.
[59] Tức trông với theo một cái gì đó đã đi xa.
[60] Trắng phau, trắng xoá.
[61] Váng sương bám trên mặt cầu buổi sớm mai.
[62] Những đám mây ở những nơi rừng núi. Câu này tả cảnh cuối thu, bắt đầu sang đông.
[63] Hơi gió heo may.
[64] Bầu trời cao ngất mà tạnh ráo.
[65] Mù mịt xa khơi.
[66] Kiều thấy trăng mà nhớ đến cái “vầng trăng” đêm nào đã chứng kiến cuộc thề nguyện của hai người.
[67] Rừng cây mùa thu có những lá úa màu đỏ xen giữa từng lá mùa xanh.
[68] Sớm hôm, chỉ sự sớm hôm chăm sóc thăm hỏi cha mẹ.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Du » Hồi 08